Chỉ vài câu trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan chỉ ra cho
chúng ta ba danh hiệu chính của Chúa Kitô, mỗi danh hiệu khơi dậy nơi tâm
hồn chúng ta lòng khát khao
được Ngài thanh tẩy mọi tội lỗi, được cứu độ và bước theo Ngài để nên giống
Ngài với lòng
biết ơn, ngợi khen và tôn thờ.
1. Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
“Gioan đang đứng với hai người
trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: Đây
là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:35-36). Gioan Tẩy Giả gọi Chúa Giêsu là Chiên
Thiên Chúa vì ông nhận ra rằng Chúa Giêsu là Đấng Thánh và cao vời, đến nỗi ông
tự thấy mình không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài.
Dân Israel bắt
đầu công cuộc giải phóng của mình bằng việc bôi máu con chiên lên khung cửa của
mỗi ngôi nhà: “Ai nấy phải bắt một con
chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con… Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là
con đực, không quá một tuổi… đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung
cửa những nhà có ăn thịt chiên” (Xh 12: 3,5-7). Mạng sống của tất cả các
con đầu lòng của Ai Cập sẽ bị Thần chết cướp đi, nhưng lại bỏ qua những ngôi
nhà có vết máu chiên con trên cửa: “Đêm ấy
Ta sẽ rảo khắp đất Ai cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai cập, từ
loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai cập: vì Ta là Chúa.
Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy
máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng
hoạ trên đất Ai cập” (Xh 12: 12-14). Điểm then chốt trong lịch sử thờ phượng
Thiên Chúa của dân Do Thái có thể được tóm gọn trong câu hỏi của Isaác thưa với
cha mình: “Có lửa, có củi đây, còn chiên
để làm lễ toàn thiêu đâu?” và câu trả lời của Abraham: “Chiên
làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ” (Stk 22:6-8).
Mỗi ngày các
thầy tư tế trong đền thờ Giêrusalem dâng một con chiên vào buổi sáng và một con
vào buổi tối: “Đây là những gì ngươi sẽ
dâng trên bàn thờ: hai con chiên một tuổi…Ngươi sẽ dâng một con lúc sáng, còn
con thứ hai thì dâng vào lúc chập tối” (Xh29:38-39). Trong hàng trăm năm,
người Do Thái mang các con chiên đến đền thờ làm của lễ chuộc tội, nhưng không
có con chiên trần gian nào có thể xóa đi mọi tội lỗi của họ. Tất cả những con
chiên hiến tế trong Cựu Ước đều là hình ảnh báo trước và hướng đến một Con
Chiên đích thực có thể giải thoát trọn vẹn kiếp phàm nhân nô lệ tội lỗi, không
chỉ dành riêng cho dân Israel mà còn cho cả toàn thể mọi dân nước trên trần
gian. Đối với các Kitô hữu, Con Chiên đích thực này chính là Chúa Giêsu Kitô, một
hy tế vô cùng lớn lao. Nơi Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã làm nên hy lễ hoàn hảo
mà Gioan đã công bố: “Đây là Chiên Thiên
Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1:29).
Tôi có tin rằng
Chúa Giêsu Kitô đúng thật là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội cho tôi không? Tôi
có muốn thân xác, tâm trí và linh hồn tôi hiệp nhất với Chúa Giêsu Kitô như của
lễ dâng lên Thiên Chúa Cha để, như Thánh Phaolô diễn tả trong bài đọc thứ hai, trở
nên “một tinh thần với Chúa… là Đền Thờ của
Thánh Thần” không? Hay tôi còn để cho thân xác, tâm hồn mình trở thành tế
phẩm cho một thứ “bò vàng” mà tôi tự tạo ra cho chính mình, từ những ảo tưởng lóng
lánh về thành công, quyền bính và tiền bạc, để che dấu đi những bất an trong
sâu xa cõi lòng?
2. Chúa Giêsu là Đấng Mêsia.
“Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong
hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Chúa Giêsu. Trước hết, ông gặp em
mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia - nghĩa là Đấng
Kitô” (Ga 1:40-41).
Chữ Mêsia trong
tiếng Do thái là מָשִׁיַח, sau này được
dịch sang tiếng Hy Lạp là Χριστός – Christos, sau nữa được
dịch sang tiếng La tinh là Christus,
sang tiếng Bồ Đào Nha là Cristo. Khi
các nhà truyền giáo đầu tiên sang giảng đạo tại nước ta, vốn là các linh mục
dòng Tên gốc Bồ Đào Nha, các ngài phiên âm Cristo
thành Kirixitô, dần dần về sau âm Kirixitô được rút gọn thành Kitô. Như thế Đấng Mêsia là Đấng Kitô.
Đấng Mêsia hay
Đấng Kitô có nghĩa là “người được xức dầu” được dùng để chỉ các tư tế, các ngôn
sứ được xức dầu. Từ này còn được dùng để chỉ các vua Saulô và Đavít vốn là những
“người được Chúa xức dầu”. Việc sử dụng từ “được Chúa xức dầu” là do quan niệm
của người Israel về quyền bất khả xâm phạm của các vị vua, của các tư tế, các
ngôn sứ vì tin rằng các vị này được ban Thần Khí của Đức Chúa (1 Samuel 24:26;
2 Samuel 1:14, 16). Đấng Mêsia – Đấng Kitô chỉ người được Thiên Chúa kêu gọi cách
đặc biệt cho việc thánh của Thiên Chúa. Từ “Đấng
Kitô” trở thành một phần của tên Chúa Giêsu, đầy đủ là “Chúa Giêsu Kitô” (Mátthêu 16:20; Ga
20:21). Từ “Đấng Kitô” luôn được người
khác dùng để chỉ Chúa Giêsu chứ chính Chúa Giêsu không dùng từ này để chỉ chính
mình, trừ một lần trong Mátthêu 16:20 khi Chúa Giêsu “cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô”
và một lần khi Ngài xác nhận với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến.
Khi Ngài đến, Ngài sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự. Chúa Giêsu nói: Đấng ấy
chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4: 25-26).
Nhưng nếu Chúa
Giêsu là Đấng Mêsia thì ai đã xức dầu cho Ngài, khi nào và ở đâu? Chính Thiên
Chúa đã xức dầu cho Ngài, nhưng không phải bằng dầu mà bằng Thánh Thần từ Thiên
Chúa Cha: “Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa
xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên
Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Ngài” (Mt 3:16). Vì vậy, chính Thánh
Thần từ Chúa Cha đã xức dầu cho Chúa Giêsu làm Đấng Mêsia – Đấng Kitô khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.
Chúa Giêsu đã
được xức dầu để làm Đấng Cứu Độ trần gian, thi ân giáng phúc, chữa lành mọi kẻ
đau bệnh tật nguyền, xua trừ ma quỷ, như Thánh Phêrô lên tiếng trong sách Công
vụ Tông đồ: “Quý vị biết rõ: Chúa Giêsu
xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn
phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị
ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài” (10:38).
Chúng ta thường
nghe các lời nguyện kết thúc bằng cụm từ “nhờ
Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con” trong nhà thờ, trong các buổi cử hành phụng
vụ cộng đoàn. Có bao giờ tôi cầu nguyện riêng tư với Chúa và kêu cầu Danh Chúa Giêsu
Kitô – Đấng Cứu Độ - chưa, nhất là với một nhận thức sâu sắc về ý nghĩa và giá
trị của Danh xưng Đấng Cứu Độ này như Thánh Phaolô nói: “Còn chúng tôi, chúng tôi biết được tư tưởng của Chúa Kitô” (1 Cr
2:16)?
3. Chúa Giêsu là Thầy.
“Chúa Giêsu quay lại, thấy các ông
đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm
gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rabbi - thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1: 38).
Rabbi có nghĩa đen là “vĩ nhân, đại sư phụ”, vì rabbi là một “Luật sĩ Do
Thái giáo” với bằng Tiến sĩ về Lề luật Môsê. Ở cấp độ cơ bản nhất, một rabbi Do
Thái là người đã nghiên cứu đầy đủ Kinh Torah, cuốn sách linh thiêng nhất trong
đạo Do Thái, bao gồm 5 sách của Môsê còn gọi là Ngũ Kinh Môsê, để giảng dạy và
đưa ra phán quyết về các vấn đề của lề luật Môsê. Ở mức độ sâu hơn, một rabbi
Do Thái, nhờ nỗ lực và sự uyên bác về Kinh Torah, có khả năng phân tích các sự
kiện và tác động của chúng một cách khách quan nhất. Nói cách khác, rabbi là
người của Sự thật. Khả năng này đã khiến các rabbi Do Thái trở thành những người
lãnh đạo cộng đồng Do Thái giáo. Họ là những Vị Thầy mà người Do Thái giáo tìm
đến hỏi han trong mọi lĩnh vực kinh nghiệm của con người, ngay cả những lĩnh vực
không liên quan gì đến luật Torah.
Thánh Mátthêu trong chương 19 kể khá nhiều trường hợp không chỉ các môn
đệ của Chúa Giêsu mà cả các người Pharisêu, rồi đến một người thanh niên có nhiều của
cải, và cả một người không nêu tên, đều gọi Chúa Giêsu là Rabbi khi đến hỏi han
Ngài nhiều điều, bằng cách ngỏ lời: “Thưa
Thầy…” và chính Chúa Giêsu cũng xưng nhận mình: “Thầy bảo thật anh em… Thầy còn nói cho anh em biết…” Chúa Giêsu còn đưa ra lời tuyên bố rõ ràng
và độc quyền về danh hiệu Rabbi này, khẳng định rằng Ngài là Vị Thầy, vị lãnh đạo
duy nhất, và yêu cầu những người theo Ngài coi nhau là anh em và phục vụ nhau:
“Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là
“rabbi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau.
Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người
lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ
anh em” (Mt 23:8-11). Thánh Gioan cũng cho thấy Chúa Giêsu nói: “Anh em gọi Thầy là "Thầy", là
"Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu
Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa
chân cho nhau” (Ga 13:13).
Ngay trong đoạn
văn này, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu tuyên bố đổi tên ông Simon: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi
là Kêpha” (Ga 1: 42). Theo truyền thống của người Do Thái, chỉ có Chúa mới
đặt tên mới cho con người, và Ngài chỉ làm như vậy khi giao cho họ một vai trò
nổi bật trong kế hoạch cứu rỗi của Ngài và kết nối họ một cách đặc biệt với lời
hứa trong giao ước của Ngài. Việc Chúa Kitô thực thi quyền lực như vậy trong lần
gặp gỡ đầu tiên với Simon cho thấy Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Chúa Kitô là Chúa
và là Đấng Cứu Độ, nhưng Ngài cũng là Vị Thầy, một Vị Thầy không như bất cứ
rabbi nào khác.
Niềm vui lớn
nhất của chúng ta là lắng nghe và học hỏi từ Chúa Giêsu Kitô, Vị Thầy do Thiên Chúa gửi đến. Tôi
có yêu thích lắng nghe, học hỏi Lời và cung cách sống của Thầy Giêsu cao quý
này không, hay tôi vẫn còn thích nghe và bắt chước bao nhiêu thứ mạng thông tin,
vốn là “bậc thầy” cổ xúy cho cách nghĩ và cách sống vô tín, vô thần, vô luân, dẫn
dắt tôi đến lối sống hời hợt bên ngoài, thực dụng duy vật, chỉ nhằm thỏa mãn bản
năng thể xác…không thể
giúp tôi nên giống như Samuel trong bài đọc thứ nhất: “Samuel lớn lên. Chúa ở với ông và không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu” (1 Sm 3:19).
4. Lời mời gọi của Chúa Giêsu Kitô dành cho mọi
người
Mặc dù các tước hiệu của Chúa Kitô nói lên sự cao cả của Ngài, nhưng
cách cư xử của Ngài trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Gioan và Anrê cho thấy sự
đơn sơ và khiêm nhường của Ngài. Ngài đi ngang qua nơi Gioan Tẩy Giả đang làm phép
rửa, không một lời nói hay một hành động ấn tượng nào. Khi Gioan và Anrê quyết
định theo Ngài, Ngài quay lại chào đón họ, dẫn họ vào một cuộc trò chuyện và mời
họ đến và dành thời gian ở với Ngài: “Ngài
bảo họ: Đến mà xem. Họ đã đến xem chỗ Ngài ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy”
Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga
1:39). Đây là cách Chúa Giêsu hành động, cách Ngài kêu gọi chúng ta, một cách
nhẹ nhàng, bất ngờ, thân tình riêng tư. Thời của Môsê với đỉnh núi Sinai bừng bừng
lửa cháy đã qua rồi; kỷ nguyên của tình bạn tốt lành và thân thiết với Thiên
Chúa vĩnh cửu đã bắt đầu.
Phêrô Phạm Văn Trung.