“Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6,13). Đây là một trong những lời cầu của
Kinh Lạy Cha mà chúng ta vốn thuộc nằm lòng và cũng thường xuyên đọc hằng ngày.
Thiên Chúa không muốn và cũng không nỡ để bất cứ ai phải sa chước cám dỗ. Cầu
nguyện là nâng tâm hồn lên, kết hiệp với Thiên Chúa để yêu mến Người, nhận biết
thánh ý Người mà thực thi. Có đó không ít người hễ cầu nguyện là chỉ biết cầu
xin và thậm chí còn như muốn bắt Chúa làm theo ý của mình. Thiên Chúa đã biết
rõ những gì chúng ta cần ngay trước khi chúng ta cầu xin. Đấng Cứu Thế dạy chúng
ta cầu nguyện: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” là để chúng ta biết rằng
Thánh ý Cha trên trời muốn chúng ta phải cẩn trọng với các chước mưu cám dỗ của
ma quỷ cũng như của những người xấu và những thế lực đen tối.
Biết
cẩn trọng để rồi biết đề phòng các chước cám dỗ bằng cách xa lánh và tìm cách
chiến đấu, chống trả cách hữu hiệu khi phải đương đầu với chúng. Để thực hiện
mục đích này thì tiên vàn cần nắm rõ chiến thuật, chiến lược của ma quỷ và các
thế lực xấu. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải biết một cách nào đó các lãnh
vực xung yếu mà ma quỷ thích tấn công, cám dỗ chúng ta. Sự thường, môn đệ thì
không hơn thầy. Cách thế và những lãnh vực ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu thì nó
cũng dùng để tấn công chúng ta. Vậy không gì hơn, chúng ta hãy xem xét những
chước cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chịu trong thời gian chay tịnh ở hoang mạc cũng
như trước giờ tử nạn để nhận rõ chước mưu cám dỗ của ma quỷ.
Chiến
lược: Nói đến chiến lược thì hầu như chúng ta nghĩ ngay đến sự
trường kỳ, lâu dài. Thánh sử Luca cho ta thấy sự thật này: “Sau khi đã xoay hết
cách để cám dỗ Đức Giêsu, ma quỷ bỏ đi và chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13). Trong ba
năm rao giảng, Chúa Giêsu đã không ít lần bị ma quỷ cám dỗ. Nó không chỉ cám dỗ
Người khi Người chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang mạc mà còn cám dỗ Người nhiều
lần và nhiều cách thế khác nhau. Sau khi Người hóa bánh ra nhiều thì ma quỷ
dùng quần chúng để cám dỗ Người làm vua (x.Ga 6,1-15). Nó cũng dùng cả người môn
đệ thân tín của Người là Phêrô để cám dỗ Người đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn
(x.Mt 16,21-23). Ngay phút giây Người hấp hối trên thập giá thì ma quỷ vẫn
không buông tha (x.Mc 15,29-39).
Chiến
thuật: Qua câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang mạc,
chúng ta nhận ra một trong những chiến thuật tinh ranh của ma quỷ là đánh ngay
vào chính khả năng của người mà nó cám dỗ. Một kiểu đánh quả là độc chiêu. Không
ai lại không ít nhiều tự hào về khả năng của mình. Khi hướng được khả năng của
ai đó đi theo chiều của mình, theo cung cách của mình thì chúng ta hầu chắc nắm
phần thắng trong tay. Ma quỷ xúi giục Chúa Giêsu sử dụng khả năng, uy quyền của
Người theo cách thế nó bày vẽ ra và dĩ nhiên là trái với thánh ý Chúa Cha. Cái
tinh xảo của ma quỷ ở chỗ nó không minh nhiên làm đổi hẳn mục tiêu mà Chúa Giêsu
nhắm đến. Nó chỉ làm lệch đi một chút hoặc xúi giục Chúa Giêsu đạt đến mục tiêu
theo cách thức không đẹp lòng Chúa Cha mà thôi. Chiến thuật xảo quyệt của ma
quỷ lộ diện cách rõ nét qua các chước cám dỗ trong hoang mạc và những giờ trước
khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Chiến thuật này có thể xem là chiến thuật mang tính
tổng lực và toàn diện.
Ngạn
ngữ “biết người - biết ta, trăm trận trăm thắng” có thể nói là một quy luật
mang tính phổ biến trong các cuộc chiến. Chúng ta biết về ma quỷ thì chẳng bao
nhiêu, nhưng chắc chắn ma quỷ biết chúng ta nhiều và rõ hơn chúng ta biết về
nó. Ma quỷ thừa biết khả năng cũng như quyền hạn của các mục tử trong giáo hội.
Một điều chắc chắn đó là nó sẽ không hề bỏ lỡ một cơ hội dù nhỏ để cám dỗ chúng
ta hành quyền cách lệch lạc. Dĩ nhiên nó sẽ không dại gì cám dỗ chúng ta hành
quyền kiểu đi ngược đường lối của Thiên Chúa cách tức khắc, một lần, nhưng chỉ
lệch một tí thôi. Từng lần, mỗi lần lệch một chút, lệch vài độ nhỏ, thì rồi sẽ
đến lúc lệch 180 độ.
Trong
vai vị lãnh đạo mà hành xử quyền bính cách độc đoán, độc tài, thì sẽ làm cho
đoàn chiên phân đàn, chia cánh, cắn xé lẫn nhau. Sự nguy hại này thường tồn tại
lâu dài và cũng rất khó khắc phục ngày một ngày hai. Lịch sử Giáo hội cho chúng
ta bài học đau thương này: để gây chia rẽ, để làm đổ vỡ thì rất dễ. Trái lại để
hàn gắn các đổ vỡ, xây dựng lại sự hiệp nhất thì quả là vô vàn khó khăn và đòi
hỏi thời gian rất lâu dài. Lẽ thường từ chỗ độc đoán, độc tài ắt sẽ dẫn đến sự
độc ác, dù nhiều khi không có chủ ý xấu nhưng hậu quả thì khó lường. Người ta
thường dễ lượng thứ cho sự yếu đuối và cả sự mê muội, nhưng sự độc ác thì rất
khó mà tha thứ hay bỏ qua. Tin Mừng cho thấy, ba năm theo Thầy, các tông đồ
thường xuyên bị cám dỗ về quyền bính.
Căn
cứ vào những lời Chúa Giêsu dùng để chống trả chước cám dỗ, đặc biệt các chước
cám dỗ thưở đầu đời công khai rao giảng của Người và phút giây hấp hối trong
vườn dầu cũng như trên núi sọ, chúng ta có thể thấy được các lãnh vực mà ma quỷ
tấn công Người.
Chước
cám dỗ về lòng mến: Một trong những sứ mạng chính yếu của
Chúa Kitô khi đến thế gian đó là mạc khải cách hoàn hảo chân dung Thiên Chúa là
Đấng toàn năng và đầy lòng thương xót cho nhân loại. Chân dung của Đấng Toàn
Năng chí ái được biểu lộ qua chính con người, cuộc đời, những lời giảng dạy,
việc làm của Người, Giêsu Kitô, vị mục tử nhân lành luôn hết tình vì đàn chiên
và từng con chiên đến độ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình. “Ai thấy Thầy là
thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Ma quỷ đâu có cám dỗ Chúa Giêsu không yêu thương con
người, nhưng nó cám dỗ Người yêu thương cách “phiếm diện”. Nếu ông là Con Thiên
Chúa thì hãy truyền cho hòn đá này hóa thành bánh đi. Chúa Giêsu đã đáp lại: “Người
ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán
ra” (Mt 4,3-4).
Không
riêng gì Kitô hữu, bà con lương dân, anh chị em khác đạo, kể cả người vô thần
đều công nhận rằng người ta không chỉ sống bằng cơm bánh. Ngoài chuyện cơm áo
gạo tiền thì con người cũng cần đến nhiều điều khác như học hành, giải trí,
nghệ thuật, tâm linh… Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nói ngược lại câu trích
dẫn của Chúa Giêsu mà không sợ sai lầm. Người ta sống không nguyên chỉ nhờ
lương thực tinh thần mà còn phải cần đến bánh, cơm, gạo, tiền... Con người là
hữu thể xác hồn duy nhất hay nói như các triết gia là tinh thần nhập thể. “Không
ai là một hòn đảo”. Con người không hiện hữu đơn độc mà còn có tính xã hội. Để
sống, tồn tại và phát triển thì con người luôn cần đến nhau, cần đến các cơ
chế, luật lệ… Như thế để yêu thương con người cách toàn diện thì chúng ta không
chỉ nghĩ đến luơng thực vật chất hay tinh thần mà còn phải biết nghĩ đến môi
trường sống, một lãnh vực nền tảng để con người tồn tại, phát triển và đạt được
hạnh phúc vốn được gọi là công ích.
Ma
quỷ thừa biết điều này và nó đã, đang cũng như sẽ mãi cám dỗ con người, đặc
biệt cám dỗ Hiền Thê Đức Kitô sống đức ái cách phiếm diện. Chước cám dỗ xui
khiến chúng ta yêu thương nhau là chỉ giúp nhau về vật chất của cải thì dễ nhận
ra. Bởi chưng cái hậu quả của việc sa chước cám dỗ này thường nhãn tiền và dễ
thấy. Dòng lịch sử Giáo hội ghi lại không ít hiện tượng này đó đây. Tuy nhiên,
chước cám dỗ xui khiến chúng ta yêu thương nhau là chỉ lo phần hồn, lo chuyện
thiêng liêng thì quả thật khó nhận diện. Ngay cả với Mẹ Giáo hội, từ thế kỷ
XIX, khi chủ nghĩa tự do chính trị bành trướng, đã dần mất hết các quyền lực
trần thế thì đã tự co cụm lại trong pháo đài của mình. Chính trong hoàn cảnh
này thì chước cám dỗ ma quỷ giăng ra lại hướng mục tiêu vào ngay bản thân Giáo
hội. Bị hạn chế về các hoạt động trần thế thì chúng ta quay về với chuyện
thiêng liêng. Vì thế Giáo hội đã quá nghiêng chiều về việc chỉ lo cứu rỗi các
linh hồn. Chỉ lo cứu các linh hồn hay chỉ lo chuyện thiêng liêng thì cũng là
một cách sa chước cám dỗ. Nếu chỉ thương xót linh hồn thì chưa phải là yêu
thương con người đúng nghĩa.
Con
người không phải là linh hồn. Hơn nữa khi chủ trương rằng chỉ lo chuyện linh
hồn thì vô tình chúng ta rơi vào quan niệm nhị nguyên, chưa kể đến chuyện đánh
lận con đen, tranh tối tranh sáng, khó bề kiểm chứng. Cũng có khi vì cái cớ lo
chuyện linh hồn mà chúng ta đã thoái thác nhiều nghĩa vụ yêu thương phải thực
thi theo giới luật mới mà Thầy Chí Thánh truyền dạy. Xin đừng quên Chúa Giêsu
đã từng cụ thể hóa luật yêu thương bằng câu chuyện người Samaritanô nhân hậu
(x.Lc 10,29-37). Đọc Tin Mừng chúng ta thấy rõ điều này: Chúa Giêsu trong ba
năm rao giảng, công việc chính của Người là giảng dạy, chữa lành bệnh tật và
xua trừ ma quỷ. Và khi sai các môn sinh đi thực tập truyền giáo, Người cũng
truyền cho các vị thực thi những điều ấy: rao giảng tin mừng, chữa lành bệnh
tật và xua trừ ma quỷ.
Con
người không chỉ sống bằng cơm bánh, con người cũng không chỉ sống bằng nguồn
dinh dưỡng tinh thần, nhưng con người còn sống nhờ tha nhân, xã hội, các thể
chế chính trị, các đường lối phát triển kinh tế, xã hội… Đã yêu con người thì
cần phải quan tâm đến con người cách toàn diện. Thời gian gần đây, Giáo hội đã
có nhiều nỗ lực thể hiện sự quan tâm của mình trong các lãnh vực được gọi là
trần thế như: lao động, công bình, công ích…, đặc biệt từ sau Công Đồng Vatican
II, với các hoạt động của thánh Bộ Công Lý và Hòa Bình. Tuy nhiên chước cám dỗ
vẫn còn đó với nhiều Giáo hội địa phương khi mà dường như chuyện trần thế còn được
xem như là không phải công việc của mình. Quả thật, không thể nói mình yêu
thương nhau khi chúng ta còn hững hờ hay bỏ qua một khía cạnh căn bản nào đó
trong đời sống của nhau. Những vấn đề về xã hội đã được Giáo hội lên tiếng
hướng dẫn. Nhưng thử hỏi có được bao nhiêu vị trong hàng linh mục, tu sĩ đã đọc
Thông điệp Rerum Novarum của Đức Lêô XIII. Gần đây Bộ Công Lý và Hòa Bình đã
tổng hợp giáo huấn của Giáo hội về các vấn đề xã hội trong quyển “Compendium of
the social doctrine of the Church” xuất bản năm 2004 thì đã được bao nhiêu
người nắm được nội dung. Giới linh mục và tu sĩ còn vậy, thế thì anh chị em tín
hữu giáo dân sẽ ra sao đây?
Chước
cám dỗ về Đức Cậy: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa
của ngươi” (Mt 4,7; Lc 4,12). Khi nghe Chúa Giêsu dùng câu trích Lời Chúa trên
đây để chống lại ma quỷ thì chúng ta dễ nhận ra trọng tâm của chước cám dỗ là hướng
vào Đức trông cậy. Giáo lý Công giáo dạy rằng có hai tội phạm đến Đức trông cậy:
một là tuyệt vọng, thiếu tin tưởng vào tình thương của Chúa và hai là chỉ dựa
vào sức mình hoặc quả ỷ lại vào tình thương của Chúa. (x.GLCG chung số 2090-2091).
Bị
cám dỗ tuyệt vọng hay thiếu tin tưởng vào tình thương của Chúa thì vẫn có đó,
nhưng xét cho cùng chước cám dỗ này tương đối dễ nhận ra. Chẳng biết ma quỷ có
thành công nhiều trong chước mưu cám dỗ này đến đâu, tuy nhiên chúng ta thấy trong
đoàn con cái Chúa, số người tuyệt vọng không mấy nhiều, nếu xét hình thức bên
ngoài. Giả như có ai đó có biểu hiện tuyệt vọng thì bà con đồng đạo sớm nhận ra
ngay và dĩ nhiên sẽ động viên giúp đỡ nhau cách này cách khác. Người rơi vào
tình trạng này rất dễ nhận được sự cảm thông và lòng thương xót của tha nhân.
Chẳng hạn với các trường hợp tự vẫn thì ngày nay người ta đã có thái độ khoan
dung hơn nhiều, vì nhờ biết cảm thông hơn.
Sa
vào chước cám dỗ chỉ dựa vào sức riêng mình thì tai hại khôn lường. Không riêng
người Kitô hữu mà bà con lương dân, anh chị em khác đạo cũng dễ dàng thấy được
cái nguy cơ của những người chỉ dựa vào sức mình. Không chỉ bất cần đến sự che
chở, phù trì của trời cao, những người chỉ dựa vào sức riêng mình cũng bất cần
cả sự giúp đỡ của tha nhân. Những người này thường hứng nhận hậu quả hay quả
báo nhãn tiền ngay ở đời này. Chính vì thế chúng ta không quá khó nhận ra chước
mưu cám dỗ của quỷ ma.
Trái
lại, chước cám dỗ xui khiến chúng ta quả ỷ lại vào tình thương và quyền năng
của Thiên Chúa thì thật tinh tế và xảo quyệt. Chước cám dỗ này thường xuất hiện
dưới nhiều hình thức bên ngoài với dáng vẻ đạo đức, thành kính, kể cả “cậy trông”! Khi
rơi vào chước cám dỗ này, đương sự khó nhận biết và tha nhân cũng khó phát
hiện. Ai lại không cảm phục người tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Thiên
Chúa? Thế nhưng chính khi rơi vào chước cám dỗ này, một cách nào đó chúng ta đã
thử thách Chúa là Thiên Chúa chúng ta. Bắt Thiên Chúa phải làm thay, giao khoán
tất cả cho Thiên Chúa bằng việc phủi tay, thoái thác trách nhiệm hoặc bằng cách
chỉ biết cầu nguyện, cầu xin mà thôi thì vô tình hay hữu ý chúng ta đã để mình
chiều theo chước cám dỗ lỗi đức trông cậy. Có thể xác quyết rằng những người đạo
đức theo “truyền thống”, những người vị trọng, chức cao trong Giáo hội rất dễ
rơi vào tình trạng này. Và cái nguy hiểm lớn nhất đó là những người đang ở
trong chước cám dỗ này lại chẳng biết, chẳng hay. Và rồi người ta có cớ để ẩn
mình trong thái độ thụ động, thiếu dấn thân, không dám quên mình, đặc biệt khi
công lý đòi hỏi phải được bảo vệ.
Người
biết sống Đức Cậy không phải là chỉ biết chuyên chăm cầu nguyện, cầu xin, nhưng
còn phải biết tận dụng những hồng ân Chúa ban là các khả năng trí khôn, sức
khỏe, thời giờ, tiền bạc…để làm cho Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa trị đến,
Ý Chúa được thể hiện… Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ đó là Chúa Giêsu chuyên
chăm cầu nguyện, tìm kiếm Thánh Ý Chúa Cha để rồi tích cực thực thi. Điểm đến
của việc cầu nguyện là để kết hiệp với Chúa, yêu mến Chúa, nhận biết Thánh ý mà
thực thi, dĩ nhiên là trong niềm tin vào tình yêu và ân sủng của Người.
Xin
được nhắc lại rằng thái độ chỉ biết cầu nguyện trong sự thụ động khoanh tay cứ
để cho mình hoặc mặc cho tha nhân ở lâu trong “tình trạng cheo leo” (khốn khổ,
bất công, bị tước đoạt nhân vị cùng với những quyền lợi chính đáng…) rồi ngồi
chờ hoặc cách nào đó “bắt” Thiên Chúa phải ra tay can thiệp, chính là một sự
nghiêng chiều theo chước cám dỗ lỗi đức Trông Cậy.
Chước
cám dỗ về Đức Thờ Phượng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người thôi” (Mt 4,10; Lc
4,8). Mẹ Giáo hội dạy chúng ta: “Hành vi đầu tiên của nhân đức thờ phượng là
thờ lạy Thiên Chúa, nghĩa là nhận biết Người là Thiên Chúa, là Đấng Sáng Tạo và
Cứu Chuộc, là Chúa và là Thầy của mọi loài, là Tình Yêu vô biên và giàu lòng
thương xót…Thờ lạy Thiên Chúa là tôn kính và tuyệt đối thần phục Người vì nhận
biết “tính hư không của thụ tạo”, biết sự hiện hữu của chúng ta, hạnh phúc vĩnh
hằng của chúng ta hoàn toàn nằm trong tay Người…Việc thờ lạy Thiên Chúa duy
nhất, giải thoát con người khỏi thái độ khép kín, khỏi nô lệ tội lỗi và sự sùng
bái thế giới ngẫu tượng.”(x.GLCG chung số 2096-2097).
Sùng
bái các loài thụ tạo, suy tôn các thế lực thụ tạo chính là hành vi lỗi phạm đến
đức thờ phượng. Một trong những chước cám dỗ ma quỷ xúi giục Chúa Giêsu năm xưa
cũng như xúi giục Hiền Thê của Người qua mọi thời là tin vào quyền năng của các
thế lực thụ tạo. Lịch sử Giáo hội một cách nào đó cho chúng ta thấy ảnh hưởng
của chước cám dỗ. Từ năm 313 với sắc chỉ Milan, Giáo hội dường như thấy được sự
hữu hiệu của thế lực trần thế nên đã có phần cậy dựa vào nó. Không chỉ cậy dựa
mà có khi Giáo hội còn lợi dụng thế quyền cho việc đạo và có khi chính mình hành
xử như một thế lực trần tục. Với sự trở lại của Vua Clovis năm 498 khiến cho
toàn dân nước Pháp bấy giờ cùng theo đạo thì chước cám dỗ như tăng phần mãnh
lực.
Để
có hiệu năng, có thành quả lớn trong việc thiêng thánh thì người ta cũng dễ bị
cám dỗ thỏa hiệp cách nào đó với các thế lực thụ tạo, và chúng ta đã “sùng bái”
thụ tạo cách vô tình mà chẳng hay. Những cuộc thánh chiến, những lần theo đoàn
viễn chinh để đi truyền giáo phải chăng không cho thấy sự cậy dựa của chúng ta
vào các mãnh lực trần thế này khiến cho Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
nhiều lần thành khẩn xin lỗi công khai? Nói rằng chúng ta đã suy tôn chúng thì
quả là hàm hồ nhưng xem chúng là một trong những động lực chính của sự thành
công thì dường như không sai. Chuyện “xì căng đan” của hàng giáo sĩ Hội Thánh
Ba Lan trong thời cộng sản đã từng là chuyện thời sự và cũng là bằng chứng về
sự hiện hữu của chước cám dỗ tinh vi và độc hại này. Hy vọng rằng bài học đau
thương này không tái diễn nơi các giáo hội địa phương khác.
Đến
khi không nắm được các thế lực trần gian thì chúng ta lại rơi vào việc tự thần
thánh hóa chính mình. Giáo hội là một xã hội hoàn hảo (Societas Perfecta). Cái
khái niệm được xem là “tự huyễn hoặc” này đã từng kéo dài cho đến Công Đồng
Vatican II. Mình không thể sai lầm, chỉ có mình mới nắm giữ trọn vẹn chân lý
cũng là một trong những cách thế đặt mình thành ngẫu tượng. Chước cám dỗ ấy còn
len lõi vào trong cung cách sống đạo. Nhiều anh em luơng dân hay bà con khác
đạo nghĩ rằng “cứ nói nhiều là sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Nghĩa là khi đã thực
hiện đủ một số công thức, kinh kệ nào đó thì thần minh phải thực hiện điều mình
muốn. Bắt Thiên Chúa tự động (automatic) thực hiện điều mình quy định hay kiểu
thức mình đặt ra đúng là một cám dỗ lỗi đức thờ phuợng tinh tế. Chước cám dỗ kiểu
dạng ma thuật vẫn phảng phất đâu đó trong các cử hành bí tích, á bí tích. Nếu
không tỉnh táo, cẩn mật đề phòng thì cả đến đấng bậc được xem là có thánh chức
cũng sa vào, nhất là với cái nhìn “bí tích học” về tính tại sự (ex opere operato)
một cách quá máy
móc.
Điều
quan trọng là xem xét thánh ý Thiên Chúa. Nếu ỷ lại vào các quy chế do chính
chúng ta đặt định để cho rằng mình có quyền ban ân lộc thánh thiêng thì cũng là
một cách ngẫu tượng hóa bản thân. Chuyện còn tính thời sự đó là nhiều cuộc tấn
phong giám mục tại Trung Quốc dù cho là có “thành sự” (valide) nhưng không “hợp
pháp” (licite), dĩ nhiên bị tuyệt thông tiền kết (GL Đ.1382). Đây là tình trạng
xấu, thế nhưng chỉ sau một “hiệp ước” giữa Tòa Thánh với Chính quyền dân sự thì
tình trạng ấy từ xấu trở thành “tốt ngay”! Thiết nghĩ rằng nếu “dùng đức tin mà
bù lại” thì cũng có phần khiên cưỡng cách nào đó. Ngẫu tượng hóa bản thân thì
vẫn còn dễ nhận biết, nhưng ngẫu tượng hóa tập thể hay cơ chế thì khó phát
hiện. Tôn vinh một cơ chế nào đó, một tập thể nào đó lên hàng muôn năm, lên
hàng bất diệt là sa vào chước cám dỗ thờ ngẫu tượng. Chước cám dỗ xưa đã khuất
phục tổ tiên chúng ta nay như mãi đeo đẳng con cái loài người, kể cả Hiền Thê
Đức Kitô.
Có
thể nói Đức thờ phượng là hiện thực hóa Đức Tin. Chân lý nền tảng chúng ta tin
nhận đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng Tạo Thành và là Cha của hết
mọi người, vì thế chúng ta phải tôn thờ, thần phục và yêu mến chỉ mình Người
trên hết mọi sự, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Ngoài Người
ra thì không có thần minh nào hết. Thế nhưng trong thực tế nhiều khi chúng ta
lại suy tôn nhiều thực thể nhân loại lên hàng thần thánh! Kinh tin kính thời
các thánh Tông đồ chỉ rõ ngay đến Giáo hội cũng chỉ là đối tượng của sự tin có
chứ không phải là tin kính.
Thế
nhưng hình như vẫn có đó việc vô tình hay vô tri, chúng ta vĩnh cửu hóa một
phương thế Chúa Giêsu thiết lập vốn mang tình thời gian. Có nhiều đấng bậc cảm thấy
bị xúc phạm khi nghe nói đến chước cám dỗ của Hiền thê Chúa Kitô, trong khi đó
vẫn thấy bình thường khi nghe đề cập đến các chước cám dỗ của chính Đấng Sáng
lập nên Giáo hội. Phải chăng đã có lúc, có khi chúng ta nói về Giáo hội nhiều
hơn là nói về Thiên Chúa, nhất là khi chúng ta đón nhận một vị trí, vai trò chủ
chăn nào đó? Việc đánh lận con đen cũng là một lỗi nghịch với đức thờ phượng,
với đức tin. Chống cha là chống Chúa, nói đụng đến giám mục là chống phá Giáo
hội, là xúc phạm đến Thiên Chúa. Những lập luận trên đây không luôn hữu lý mà
nhiều khi lỗi đức thờ phượng vì chúng ta vô tình thờ ngẫu tượng mà chẳng hay.
Cơn
cám dỗ cuối cùng: Ở đây, không chủ ý nói đến cuốn tiểu thuyết
“Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô” (The last temptation of Christ) của nhà
văn Hy Lạp Nikos Kazantkasis. Tuy nhiên, đọc Tin Mừng chúng ta phải chân nhận
rằng quảng thời gian Chúa Kitô bị cám dỗ quyết liệt nhất đó là những giờ trong
vườn dầu và trên cây thập giá. Có lẽ viễn ảnh khổ giá là một thử thách to lớn
đối với Chúa Giêsu. Thế nhưng trong thời gian rao giảng, Người đã thoáng hình
dung khổ hình thập giá sẽ chịu. Theo thiển ý, có lẽ điều cám dỗ Chúa Giêsu nặng
nề nhất đó là sự thất bại, mất cả chì lẫn cả chài,“xôi hỏng, bỏng tay”. “Êlôi,
Êlôi, lamasabacthani ! Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi
con!” (Mc 15,34).
Nói
đến chước cám dỗ về hiệu năng. Mong nhìn thấy kết quả là chước cám dỗ phổ biến
nơi nhiều người, cách riêng với những ai có chút tài và chút tâm. Dẫu biết rằng
“thất bại là mẹ thành công” nhưng cũng thật khó lòng đón nhận thất bại cách
thanh thản, nhất là khi vì sự thất bại ấy mà ta dường như mất tất cả, nhất là cái thanh danh của mình. Đã
làm điều gì đó thì ai cũng mong sẽ thành công, sẽ đạt kết quả. Chính vì thế, ma
quỷ khôn ranh cho chúng ta thoáng thấy sự uổng công, sự thua cuộc và cả sự thất
bại để rồi chúng ta e ngại, dừng bước, khoanh tay.
Đứng
trước tình trạng nhiễu nhương của xã hội hôm nay, tình cảnh chiến tranh loạn
lạc của thế giới, nhiều hiện tượng bất ổn trong Giáo hội, đặc biệt liên quan
đến hàng giáo sĩ từ cấp nhỏ đến cấp lớn, có đó không ít người có chút tâm và
chút tài đã ngần ngại, e dè vì thoáng thấy sự thất bại trước mắt nếu can đảm
lội dòng nước ngược. Một con chim én khó có thể và như không thể làm nên mùa
xuân. Và số phận của nó chắc gì còn cánh, còn lông! Không chừng còn bị chê bai
là thiếu khôn ngoan, là nóng vội, là bốc đồng, là hiếu thắng. Có khi lại bị quy
chụp là phản động, là rối đạo. Và khi đã bị thua cuộc thì rất có thể bị dè bỉu
rằng nếu nó làm đẹp lòng Chúa thì Chúa phải bênh đỡ nó chứ! (x.Mt 27,39-44).
Đã
không thành công lại còn có thể mất thanh danh, mất chức vị, quyền hạn… thì
thật là điều khó vượt qua. Dù rằng đã phải khuất phục trước Chúa Kitô, trước
các thánh tử đạo… nhưng ma quỷ cũng đã nhiều lần thành công trong chước cám dỗ
này với Hiền Thê của Người theo dòng lịch sử. Cơn cám dỗ cuối cùng luôn có đó
với từng người chúng ta. Mùa chay thánh lại về, theo lời mời gọi của các vị cha
chung của Giáo hội, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI đang
nghỉ hưu, và Đức đương nhiệm, Phanxicô, chớ gì ta chuyên chăm ngắm nhìn thập
giá mà học biết yêu thương trong sự can đảm chết đi để được phục sinh, can đảm
đón nhận sự thất bại để cùng chiến thắng với Người.
Vai
trò của người lãnh đạo trong các cuộc chiến:
Trong
các cuộc chiến người ta dễ nhận ra quy luật này: “mạnh ở tướng chứ mạnh gì
quân”. Đêm Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã từng nói rằng khi chủ chăn bị đánh tơi tả thì
đàn chiên sẽ bị tan tác (x.Mt 26,31). Xin mạo muội đề nghị một giải pháp dành
riêng cho các mục tử để chiến đấu với thần dữ trước các chước mưu cám dỗ của
nó, đó là quy chiếu Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu: Mầu nhiệm Thánh Thể Chúa
Kitô.
Nói
đến Giao ước chúng ta có thể hiểu cách phổ thông như là một bản ký kết, một bản
hợp đồng giữa hai bên tự nguyện chịu trách nhiệm một hay nhiều phận vụ nào đó
và dĩ nhiên sẽ được hưởng một hay nhiều quyền lợi kèm theo. Qua bản hợp đồng
thì quyết định tự do đầy tinh thần trách nhiệm được cụ thể hóa cách dứt khoát.
Và rồi chính bản hợp đồng là căn cứ, là cơ sở để giải quyết những thiếu sót hay
những sự tắc trách vì vô tình hay chủ tâm của bên này hay của phía kia. Các hợp
đồng dân sự giữa các pháp nhân tư hay
pháp nhân công thì đều có tính giới hạn. Chúng có thể bổ sung, thay đổi hay hết
hiệu lực vì nhiều lý do như hết thời hạn hoặc một phía hoàn toàn không có khả
năng thực hiện hoặc mất tư cách pháp nhân…
Chúa
Kitô đã mình nhiên thiết lập Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu bằng chính thịt
máu của Người. Đây là một “hợp đồng” có giá trị cho đến khi trời mới đất mới
xuất hiện. Giao ước này chính là cuộc chiến thắng chung cuộc của Chúa Kitô trên
thần dữ. Một hành vi được viên đầy giá trị ngay chính khi được quyết định cách
dứt khoát. Giáo hội tin rằng khi lập Bí tích Thánh Thể trong đêm Tiệc Ly là lúc
Chúa Kitô quyết định cách dứt khoát vâng phục thánh Ý Chúa Cha, thể hiện một tình
yêu đến cùng là hiến dâng mạng sống vì nhân loại mà hy tế thập giá là điểm đến hay
là sự biểu hiện. Chính vì thế mà mỗi lần Bí tích Thánh Thể được cử hành thì
Giáo hội nhìn nhận là Hy tế thập giá Chúa Kitô được hiện tại hóa. Chính yếu tố
“hiện tại hóa” Hy tế cứu độ của Bí Tích Thánh Thể giúp chúng ta đủ sức trường
kỳ chiến đấu với thần dữ mưu ma.
“Các
con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Giáo hội căn cứ những lời trên đây để
xác quyết việc Chúa Kitô lập bí tích truyền chức thánh. Không dám mạn bàn về
thần học bí tích, tuy nhiên khi nhìn vào nội hàm của lời truyền Đấng Cứu Độ đêm
Tiệc Ly thì chỉ có hàng giám mục và linh mục là những người có năng cách thực
thi những điều được truyền là cử hành nhiệm tích Thánh Thể mà không có hàng phó
tế, dù cũng là thuộc bí tích truyền chức thánh. Xin được bỏ qua vấn đề này để tập
chú vào mối liên hệ hữu cơ giữa hàng tư tế thừa tác với Giao ước mới, Giao ước
vĩnh cữu. Sự hiện hữu của hàng tư tế thừa tác theo ý Đấng Cứu thế, là để cho Giao
ước mới hiện diện và phát huy hiệu quả theo dòng thời gian. Chính các thừa tác
viên Thánh Thể là những người thể hiện Giao ước này. Hội Thánh khẳng định chân
lý này khi tuyên bố rằng lúc giám mục hay linh mục đọc lời truyền phép là đọc
trong tư cách Chúa Kitô (in personna Christi) (Không đọc: “Này là Mình Chúa
Kitô” mà đọc “Này là Mình Thầy”…Trước đây dịch: “Này là Mình Ta”).
Nếu
lỡ vì lý do nào đó mà các tư tế thừa tác sa chước cám dỗ thì thiển nghĩ rằng
không gì hơn hãy trở về với “bản hợp đồng vĩnh cửu” để quy chiếu hầu chỉnh sửa
những sai lầm. Chính khi biết hiến dâng trọn xác thân của mình trong tình liên
đới với nhân loại tội lỗi (Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em), thì chúng ta
đang thể hiện tình yêu mến Thiên Chúa qua sự vâng phục Thánh ý Người là chọn
lấy phương thế tuyệt hảo để bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Ai yêu mến
Chúa thì thực thi lời người chỉ dạy. “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
Nội hàm của “việc này” là noi gương Thầy Chí Thánh nhiệt thành giảng dạy chân
lý, gắng công vuông tròn phận vụ người mục tử, và hơn nữa, người tư tế thừa tác
cần biết can đảm dùng chính máu thịt của mình để cho tha nhân đón nhận sự sống
và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Sống bí tích Thánh Thể là một cách thế biểu lộ lòng
mến và sự cậy trông tuyệt hảo.
Mọi
sự lành đều bởi Chúa mà ra. Ơn cứu độ là quà tặng hoàn toàn nhưng không. “Mọi sự
đã hoàn tất” (Ga 19,30). “Con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha”(Lc
23,46). Giao ước mới minh định rằng những gì chúng ta đang có, đang là, đều do
bởi lãnh nhận. Việc Chúa Kitô hiến dâng toàn thân cho Chúa Cha nhắc nhớ cho
chúng ta chân lý nền tảng của đức tin để rồi biết cách thế thờ phượng Thiên
Chúa cho xứng, cho phải đạo. Mọi sự đều là của Thiên Chúa và phải dâng về cho
Thiên Chúa. Giáo hội khẳng định chân lý này khi dạy chúng ta rằng Thánh Lễ là
trung tâm của đời sống Kitô hữu và là đỉnh cao của hành vi thờ phuợng.
Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ: một lời cầu xin mãi luôn mang tính hiện sinh
và cảnh tỉnh chúng ta, mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Cầu xin là để
nhận biết chước cám dỗ để mà xa lánh hay đề phòng, nhất là để biết cách thế
chống trả hữu hiệu. Thánh Tông đồ cả Phêrô cảnh giác chúng ta rằng ma quỷ như
sử tử gầm gừ rảo quanh chúng ta rình chờ cắn xé (x.1P 5,8). Vấn đề đặt ra đó là
rất nhiều khi chính chúng ta không nhận ra tình trạng sa chước cám dỗ của mình.
Là Kitô hữu, đặc biệt là những tư tế thừa tác, không gì hơn hãy luôn bám sát
“bản hợp đồng” là Giao Ứớc mới, Giao Ước vĩnh cửu để chấn chỉnh, sửa sai và để
biết cách thế chống trả chước mưu cám dỗ của thần dữ. Tin rằng một tư tế thừa
tác thường xuyên ý thức và sống nội hàm những gì mình cử hành trong hy tế Thánh
Thể hằng ngày thì chắc chắn sẽ khó lạc đường, sa chước cám dỗ mà nếu có thì
cũng nhanh chóng chỗi dậy và trở về.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa –
Ban Mê Thuột