“Anh em đã được trỗi dậy cùng với
Chúa Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa Kitô đang ngự
bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ
đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới
của anh em hiện đang tiềm tàng với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Chúa Kitô, nguồn
sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng
phúc vinh quang” (Côlôsê 3:1-4).
Mỗi cõi lòng con người đều khao khát được biết ý nghĩa của cuộc đời riêng
mình. Tuy nhiên, ngày nay rất nhiều người cảm thấy rằng niềm khao khát của họ
là vô ích. Lòng họ đau đớn vì chán nản, thậm chí tan vỡ vì tuyệt vọng.
Đức Giám mục Erik Varden của Trondheim, Na Uy, viết về thời điểm ngài
chưa tròn mười sáu tuổi và tự cho mình là người theo thuyết bất khả tri. Trong
cuốn sách năm 2018 của mình tựa đề Sự tan
vỡ của sự cô đơn: ký ức Kitô giáo, Đức Giám mục Varden nhớ lại mình trở nên
quan tâm đến âm nhạc của Mahler ở một cấp độ thẩm mỹ và kỹ thuật thuần túy.
Thiên Chúa thường sử dụng những hiểu biết phiến diện của chúng ta về những
đặc tính có sẵn và tất yếu nơi những điều chân, thiện,mỹ để làm thủng bức tường
phòng thủ của chúng ta chống lại Ngài. Ngài đi vào tâm trí và cõi lòng của
chúng ta và nắm lấy chúng bằng ân sủng. Ngài đã làm như vậy với Giám mục Varden,
dẫn vị giám mục đến nghe Bản giao hưởng thứ hai của Mahler, Sự phục
sinh.
Những lời của Bản giao hưởng làm chứng cho quyền năng bất khuất của sự sống
đã phục sinh:
“Bạn được gieo để nở hoa lần nữa.
Chúa của mùa gặt đi và tập hợp chúng ta lại,
vốn là những kẻ đã chết, như những bó lúa.
Hãy có đức tin, trái tim, hãy có đức tin:
bạn sẽ không bị mất điều gì cả. Những gì bạn hằng khao khát là của bạn,
vâng, là của bạn; những gì bạn đã yêu thương và đấu tranh là của bạn.
Hãy có đức tin: bạn không sinh ra một cách vô ích.
Bạn không sống hay đau khổ một cách vô ích.”
Thông điệp về sự chiến thắng của sự sống trước đau khổ và cái chết đã
tác động mạnh mẽ đến chàng thanh niên Varden. Thế là bắt đầu một trải nghiệm mạnh
mẽ và lâu dài về metanoia – hoán cải:
· Khi nghe những lời này, một điều gì đó
bùng nổ. Lời khẳng định lặp đi lặp lại “không vô ích, không vô ích” là không thể
cưỡng lại được. Không phải chỉ là tôi muốn tin vào điều đó. Tôi biết đó là sự
thật. Nghe có vẻ sáo rỗng nhưng ngay lúc đó, ý thức của tôi đã thay đổi. Với một
sự chắc chắn không xuất phát từ cảm xúc quá mức hay phân tích lạnh lùng, tôi biết
mình mang trong mình một điều gì đó vượt quá giới hạn của mình. Tôi nhận thức
được mình không đơn độc. Không có sự bừng cháy đặc biệt, không có chuyển động nội
tâm ngây ngất. Không có nước mắt. Nhưng tôi không thể nghi ngờ những gì tôi đã
tìm thấy là sự thật, còn thật hơn là tôi không thể nghi ngờ sự tồn tại của
mình. Cảm giác về sự thật đó chưa bao giờ rời bỏ tôi. Điều
này vẫn làm tôi ngạc nhiên.
Tin vui mừng và vinh quang về sự Phục Sinh của Chúa Kitô có sức mạnh làm
bùng vỡ những tâm hồn vốn tràn ngập chán nản và tuyệt vọng. Từ những trái tim
như vậy tuôn ra chất độc của tội lỗi, sự nghi ngờ và cảm giác mòn mỏi về sự vô
nghĩa của chính mình. Những cõi lòng trống rỗng như vậy sẵn sàng được Thiên
Chúa lấp đầy bằng ân sủng cứu độ và chữa lành của Ngài. Chúng được lấp đầy bởi Thiên
Chúa Ba Ngôi ngự trong chúng ta.
Lời công bố về ngôi mộ trống của Chúa Kitô cho các tông đồ như một tia
sét đánh vào họ và khiến họ có phản ứng ngay lập tức. Phêrô và Gioan chạy đến mộ:
“Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia
chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước” (Ga 20:4), thấy mộ trống, cuộc sống
của họ được thay đổi mãi mãi bởi đức tin Phục Sinh: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy
và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Chúa
Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20:8).
Việc các tông đồ rao giảng rằng Chúa Giêsu đã sống lại cũng có tác dụng
biến đổi tương tự đối với những người nghe chứng tá của họ. Người Do Thái cũng
như người ngoại đều nhận thấy Chúa Giêsu thực hiện những lời hứa của Giao Ước
Cũ, cũng như thực hiện những mong ước sâu xa nhất của tâm hồn họ. Ngay cả giữa
những đau khổ khủng khiếp, sự tươi mới của đức tin Kitô giáo vào sự Phục sinh
trong những năm đầu tiên đó đã biến những con người thấp hèn và nhút nhát thành
những nhà hùng biện về quyền năng Thiên Chúa và thành những con người có ý chí
sắt đá và lòng can đảm anh hùng.
Ý nghĩa của cuộc đời một người là gì? Câu hỏi được đặt ra như thế bởi vì
một người chán nản hoặc tuyệt vọng thường ít nghĩ đến ý nghĩa cuộc sống con người
nói chung hơn là nghĩ đến ý nghĩa cuộc sống của chính mình.
Thông điệp của Lễ Phục Sinh là Thiên Chúa đã chịu đau khổ, đã chết và đã
sống lại vì tất cả chúng ta, và cũng vì mỗi người chúng ta. Lễ Phục sinh tuyên
bố rằng vượt trên tất cả những gì dường như là thất bại trong cuộc đời, có một
chiến thắng cuối cùng. Theo câu ngạn ngữ cổ, ngày lễ lớn nhất này trong các
ngày lễ cho chúng ta biết rằng Satan sẽ tới giờ của hắn, nhưng Thiên Chúa sẽ có
ngày của Ngài. Đau khổ đến với mọi người, nhưng trong Chúa Kitô, đau khổ trở
thành công cụ cứu rỗi chúng ta.
Có lẽ vượt trên tất cả, Lễ Phục Sinh hướng tâm trí con người về với
Thiên Chúa. Để diễn giải những lời của Đức Giám Mục Varden, người nào nhìn thấy
quyền năng của sự Phục sinh sẽ thấy nơi mình điều gì đó vượt quá giới hạn của
chính mình. Người nào tin Chúa Kitô phục sinh sẽ biết rằng mình không đơn độc.
Chúa Giêsu phục sinh hứa: “Thầy ở cùng
anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mátthêu 28:20).
Tự do khỏi cái chết, ân sủng trong đau khổ, biết được tình yêu hoàn hảo
nhất, biết được tình bạn tốt nhất và lời hứa về cuộc sống vô biên vượt ra ngoài
giới hạn của thế giới này? Sống đời mai ẩn trong Chúa Kitô thật là vinh quang.
Tác giả: LM Charles Fox, 31 tháng 3 năm 2024
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung,
theo https://www.catholicworldreport.com