l
Lê Đình Bảng
Một năm, hai tháng
Đức Bà
Một là hoa
phượng,hai là Mân Côi
1. Từ sau Chúa Nhật Phục Sinh, lịch sinh hoạt phụng
vụ hằng năm của nhà đạo mình xem ra có vẻ chùng chậm, lơi nhịp và
êm ả hơn. Tuần Bát Nhật, tôi có cảm tưởng, ít nhiều như là những
ngày nghỉ ngơi của buổi nông nhàn, sau gặt hái phơi phong để lấy hơi
để thêm sức, đặng bước vào mùa Thường niên miệt mài, kéo dài mãi
tới cuối năm là mùa Vọng, Giáng Sinh. Tuy nhiên, trên suốt hành trình
ấy, vẫn đan xen một số trạm dừng mang ý nghĩa chuyển tiếp – giao
mùa. Chẳng hạn, tháng 5 Dâng hoa và tháng 10 Mân côi. Chẳng hạn tháng 6
mừng kính Trái Tim Chúa Giêsu – Thánh hóa – Truyền chức – Tấn
phong và tháng 8 Khấn dòng, hành hương Đức Mẹ La-Vang vv… Đấy
là chưa kể phiên chầu lượt, tuần đại phúc hoặc lễ bổn mạng của các
xứ đạo, đoàn thể, dòng tu. Đã thành cái nếp truyền đời, sức sống
đức tin – lòng đạo cứ thế mà vận hành, chuyển động, tiếp biến, thăng
hoa rất điều độ, nhịp nhàng.
Riêng
tháng 5 Dâng hoa, từ lâu rồi, đã là chuỗi ngày lễ hội xôn xao nơi xứ
đạo – làng quê. Có ai về miền đạo ở đồng bằng Bắc bộ mà xem. Đây
là dịp “khánh hạ”, chuyển đổi thời tiết khí hậu từ Xuân sang
Hè, từ phấn chấn, ôn hòa sang oi nồng, khô khát. Bởi thế, bà con ta
vẫn có thói quen “cầu mát, cầu mưa” xin trời đất mở huệ từ bi
cho mùa màng tốt tươi, cho cuộc sống thong dong, no ấm.
Lạy trời mưa xuống
Ruộng cày, nước uống
Cho đầy nồi cơm
Tôi đơm cho dễ
Tôi lễ ông trời
Lễ
hội Dâng hoa, do đó, được tổ chức, cử hành và tham gia rất bài bản,
có kinh văn rõ rệt. Nó chuyên chở trọn vẹn tâm tình đạo hạnh thiêng
liêng, đồng thời thể hiện được những cung cách phụng thờ qua nhiều
nét vẻ nghệ thuật: từ âm nhạc (cung điệu) đến thi ca (vãn);
từ sân khấu cung đình (nhà thờ) đến sân khấu dân gian (các
dâu hoa, giáp hoa); từ rước sách, kiệu cờ đến phục trang, hóa
trang, sắc màu, đàn phách chộn rộn từng xóm từng thôn. Không thể cầm
lòng được. Nó cuốn hút người ta vào cuộc.Ngấm từ trong máu ngấm ra.
Ở đâu, lúc nào cũng thấy hoa và hoa, đủ sắc màu, đủ hương thơm. Xin trích đoạn
từ tác phẩm của một danh sĩ ở cuối thế kỷ 19
Nhiệm thay, hoa Đỏ hồng
hồng
Nhuộm riêng Máu
Thánh, thơm chung lòng người
Vì thương Con gánh
tội đời
Mẹ như dao sắc thâu
nơi lòng mình
Xinh thay,
hoa Trắng tốt lành
Ví cùng nhân đức
đồng trinh Đức Bà
Nguyên tuyền hơn
ngọc, hơn ngà
Sánh trong hơn
tuyết,cùng là hơn gương
Quý thay, này sắc
hoa Vàng
Sánh nhân đức mến,
Bà càng trọng hơn
Một niềm tin kính
nhơn nhơn
Vững vàng cậy mến
trong cơn vui,sầu
Dịu thay, hoa Tím càng mầu
Ý Trên, Bà những
cúi đầu vâng theo
Bằng lòng chịu khó
trăm chiều
Khiêm nhường, nhịn
nhục,hằng yêu hãm mình
Lạ thay, là sắc
hoa Xanh
Mừng Bà nhân đức
trọn lành cực cao
Dờn dờn sau trước
một màu
Quản chi sương nắng
giãi dầu ngày đêm
Hoa năm sắc đã giãi
niềm
Lại trưng cổ điển,
dâng thêm kim đề
2. Ai trong chúng ta đã kinh qua một phần đời mình
trong khung cảnh đồng đất thanh bình, trong quan hệ xóm làng chân chất,
thân thương và trong tâm tình trẩy hội lên đền, ắt phải ngộ ra thế
nào là mang tình nhà ra làm nghĩa đạo, là đem cuộc sống riêng tư hòa
quyện vào việc chung. Nói khác đi, dù đến xem – nghe hay hiệp thông
cầu nguyện, thì qua lễ hội Dâng hoa, người ta vẫn muốn giãi bày
những ước vọng trong sáng nhất, tinh ròng nhất. Đó là được thanh
thỏa về tinh thần, được gửi gắm những tân toan đời mình vào cõi
thánh thiêng, được hòa nhập việc phần xác vào việc phần hồn của
những người con thảo với mẹ hiền.
Chúng
con đang chốn phong đào
Mong
gieo hạt giống, e vào bụi gai
Cậy
trông Đức Mẹ nhân thay
Rủ
thương vì chúc tụng này cùng hoa
(Nghinh Hoa Tụng Kỳ Chương, 88-90)
Phải
chăng, đây cũng là một trong những cách lý giải vì sao những hội hè
lễ lạt về Đức Mẹ, về Phật Bà Quan Âm, về Thiên Lý
Thánh Mẫu, về tổ mẫu Âu Cơ, về bà chúa Liễu Hạnh…
luôn tỏa ra sức hấp dẫn diệu kỳ. Và phải chăng trong cảm thức tín
ngưỡng của dân gian đã sẵn có một thứ linh đạo thánh nữ rồi vậy?
Cho nên, xuất phát từ những nhu cầu trên, từ buổi đầu đón nhận Tin
Mừng, cha ông ta đã sớm biết vận dụng văn hóa nghệ thuật làm phương
tiện “tải đạo”, dùng thi ca, âm nhạc, vũ dạo để diễn tả đức
tin. Lòng đạo ấy, xuyên suốt chiều dài lịch sử gần 500 năm
(1533-2005), vẫn tồn tại, sinh hoa, kết trái. Không thể bảo là nông
cạn, tầm thường được. Kể cả cụm từ “Lòng đạo đức bình dân”
mà xưa nay ta quen dùng cũng cần phải được xem xét lại sao cho xứng
hợp, công bằng hơn, trân trọng hơn. Chẳng hạn, nên sử dụng cụm từ “Lòng
đạo đức dân gian”
Tóm
lại, bức tranh lễ hội Dâng hoa sinh động nơi các xứ đạo – nhà thờ
vào mỗi tháng 5 này như đã khởi
hành từ một chiều sâu đức tin, được diễn tả trong một chiều rộng của lòng đạo, giữa
bát ngát thênh thang của mùa màng
thời vụ. Lễ hội Dâng hoa tập hợp muôn hình muôn vẻ của nhiều địa
phương, của nhiều truyền thống văn hóa tâm linh, của một rừng sắc
hương nguyện cầu Mẹ.
3. Vài
chục năm gần đây, xứ đạo nhà thờ nào cứ mỗi độ tháng 5 dâng hoa, lại vang lên
những lời kinh, điệu nhạc:
Giáo dân bao xiết
mừng
Tiếng ca hoà vang
lừng
Cùng nhau hái nhiều
đóa hoa
Lượm lên, tiến dâng
Đức Bà
Hoa muôn sắc,con
dâng trước toà
Màu tươi thắm,hương
ngát tốt xinh...
Chúng ta vừa cất cao một
tiểu đoạn đã thuộc nằm lòng trích từ bài thánh ca Dâng Hoa của
nhạc sĩ Hải Linh (1920-1988). Cùng trong chỗ "đồng hương đồng
khói" Nam Định - Bùi Chu với nhau, lại cùng "ăn cơm nhà
Chúa", phải chăng, Cụ Cử Thiện và nhạc sĩ Hải Linh cũng đã có chung ít
nhiều "rung động cảm xúc thánh thiêng" mỗi độ Tháng Hoa Mẹ về? Không
lạ gì, đa phần các Tuyển Tập Thánh Ca đầu tay của nhạc đoàn Sao Mai (1945-1947)
thường mang chủ đề Ca Vịnh về Đức Mẹ. Thực ra, mảng đề tài về Đức Mẹ
ở trong thời điểm lịch sử này đã được đông đảo các nhạc sĩ Công giáo triển
khai, hưởng ứng khá phong phú. Đó là trường hợp của những nhạc đoàn ra đời trước
hoặc sau đó ít năm, như: Lê Bảo Tịnh (Hà Nội); Ca Thánh (Phát Diệm); Tiếng
Chuông Nam (Thanh Hoá); Thiên Cung Hải Phòng); Minh Nhạc (Bắc Ninh); Mẫu Tâm
(Thái Bình); Phan Văn Minh (Sài gòn); Vĩnh Long; Huế và Qui Nhơn. Mãi đến giữa
thập niên 1960, với ánh sáng của Công Đồng Vaticano II, Thánh Nhạc- Thánh Ca
CGVN mới có một "chuyển hướng", khơi nguồn từ Lời Chúa, từ
Thánh Kinh: Hoàng Kim, Vinh Hạnh, Kim Long, Viết Chung...
Phê-rô Phạm Trạch Thiện (1818-1903), quê làng Cốc Thành, huyện Nam Trực, Nam Định. Thi Hương khoa Nhâm Tý (Tự Đức năm thứ 5), đỗ Á khoa. Nhưng bị truất tịch (xoá tên), vì theo"Gia
Tô tả đạo". Tác
giả của mảng Ca Vãn Công giáo vừa có giá trị văn chương nghệ thuật, vừa mang ý nghĩa thiêng liêng nguyện cầu: Kinh Thiên Chúa Cao Sang
( 90 câu thơ lục bát, diễn ca Cảm Tạ Niệm Từ,nguyên văn chữ Hán của Thầy
giảng Phanchico (?
- 1640); Thánh Mẫu Thi Kinh (134 câu thơ lục bát,diễn ca Kinh Cầu Đức Bà); Văn Côi Thánh Nguyệt Tán Tụng Thi ca (252 câu thơ song thất lục bát và biến thể, diễn ca Phép Lần Hạt Mân Côi Đức Bà)và Nghinh
Hoa Tụng Kỳ Chương (112 câu thơ lục bát, Vãn
Dâng Hoa Đức Bà).
(Tham khảo nguồn: Ở Thượng Nguồn Thi Ca Công giáo
Việt Nam.Miền Thơ Trong Kinh Nguyện,nxb Tôn Giáo 2009 và Dâng
Hoa Toàn Tập của Lê Đình Bảng).
Tham khảo từ: Lê
Đình Bảng. Ở Thượng Nguồn Thi Ca Công giáo Việt Nam. Miền
Thơ Trong Thánh Nhạc- Thánh Ca, nxb Phương Đông, 2009 và Thánh Nhạc Thánh Ca Công Giáo Việt Nam
- Những Chặng Đường, bản Dự Thảo.