(Lc 24:46-53)
Cuộc bầu cử tổng thống tại Hoa Kỳ năm 2004 vừa qua đã làm nổi bật lập trường chống phá thai của đảng Cộng Hòa. Cuộc chiến thắng của Cộng Hòa phản ánh thực trạng đa số dân chúng Hoa Kỳ vẫn còn tôn trọng các giá trị luân lý. Trong khi đó, đảng Dân chủ vẫn chủ trương phá thai và tài trợ cho các nước nghèo tham gia chương trình phá thai. Ðiển hình nhất là Hillary Clinton, ứng cử viên tổng thống của đảng Dân Chủ năm 2008. Năm 1995 tại Bắc Kinh, bà đọc bài diễn văn kêu gọi thế giới chấp nhận phá thai là quyền căn bản, tức nhân quyền. Bà quyết liệt hỗ trợ việc phá thai theo nhu cầu, dù thai nhi đang ở bất cứ giai đoạn nào trong chín tháng.
Tất cả những hoạt động chủ trương phá thai đó bắt nguồn từ quan điểm duy vật thực tiễn. Họ khinh thường mạng sống con người. Con người bị trấn áp và tiêu diệt từ trứng nước. Con người đã mất quyền làm người ngay từ trong bụng mẹ. Cần có những giây phút nhìn vào tận nội tâm để tìm hiểu ý nghĩa và giá trị lớn lao của con người.
Nếu con người chẳng có giá trị gì, chắc chắn Con Chúa đã không đến làm người. Việc Người Thăng Thiên càng làm sáng tỏ địa vị và giá trị tối cao của con người khi được hiệp thông với Thiên Chúa. Ðúng như Chúa Giêsu quả quyết : “Khi nào được nâng lên cao, tôi sẽ kéo mọi sự lên với tôi.”
MẦU NHIỆM ÐỨC TIN
Còn hình ảnh nào thơ mộng hơn cảnh Chúa bay về trời giữa đoàn môn đệ ?! Chúa rời xa trái đất để đi vào một thế giới huyền bí, nhưng không phải huyền thoại. Quả thực, tuy là một thực tại, Chúa Thăng Thiên vẫn là một đối tượng đức tin, nằm ở trung tâm mầu nhiệm. Bản tính nhân loại của Ðức Kitô Phục sinh đã được đưa vào thiên giới với Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh trong quyền lực và vinh quang. Từ nay, trong chính mầu nhiệm Ba Ngôi xuất hiện bản tính nhân loại. Phải chăng như thế, bản tính nhân loại đã được nâng lên tới cấp độ Thiên Chúa ? Trong khi kiếp người đọa đầy với bao khốn cùng, phải chăng Giáo hội đã đi quá xa thực tế khi tuyên xưng Chúa Thăng Thiên ?
Dưới cái nhìn đức tin, Thăng Thiên là một Biến Cố Cứu Ðộ. Biến cố này phải có một ý nghĩa lớn lao đối với cứu cánh nhân loại. Tất cả bản tính con người trở thành một nơi để Con Chúa hoàn thành tất cả những lời Chúa hứa. Con người có khả năng hành động như Thiên Chúa nơi Ðức Giêsu Kitô. “Ðức Kitô là Thiên Chúa trong cung cách con người và là con người trong cung cách Thiên Chúa.”[1] Thế nên, các hành động con người nơi Ðức Giêsu trở thành sức mạnh cứu độ nhân loại. Theo thánh Phaolô, Chúa Thăng Thiên đem lại giá trị cứu độ cho con người. Người chính là Ađam mới (Rm 5:18). Bởi đó, mỗi biến cố trong cuộc đời Ðức Giêsu đều thay đổi sự sống con người tận nơi sâu thẳm nhất. Ðức Kitô Thăng Thiên chính là con người thăng thiên, hiệp nhất với thiên tính và thực sự đạt đến cứu cánh muôn đời (x. Ep 2:4-6).
Nhưng cuộc Thăng Thiên không đưa Ðức Giêsu xa rời vĩnh viễn các môn đệ. Trái lại, Người lên cao để hiện diện một cách mới mẻ và sâu thẳm trong lòng mỗi Kitô hữu. Sự hiện diện này sẽ đem lại kết quả tốt đẹp và phong phú hơn, vì cả Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần bây giờ sống trong tâm hồn họ. Chúa Giêsu về trời để hiện diện bằng thân xác với Chúa Cha và hiện diện trong thần tính với các tín hữu. Như thế theo thánh Thomas, chúng ta tiêp xúc với Ðức Kitô trong vinh quang ngay từ bây giờ, chứ không phải mãi sau này mà thôi. Cuộc tiếp cận đó là nền tảng diệu kỳ cho niềm hy vọng của chúng ta.[2] Thánh Augustinô so sánh việc Ðức Kitô hiện diện với chúng ta sau khi Người Thăng Thiên giống như Người hiện diện với Chúa Cha sau khi Người Nhập Thể. Ðức Thánh GH Lêô nói khi Ðức Kitô hiện diện với tư cách con người ít hơn, chính là lúc Người hiện diện với tư cách Thiên Chúa trọn vẹn hơn.[3]
“Hiển nhiên, mầu nhiệm Thăng Thiên cho thấy giờ đây toàn thể bản tính nhân loại được tôn vinh với Ðức Kitô. Kết quả con người được nhận làm con Chúa và thân xác được cứu chuộc trong Ðức Kitô. Nhờ Ðức Kitô Thăng Thiên, mỗi Kitô hữu sẽ lớn lên tới tầm mức sung mãn của vị Nguyên Thủ là Ðức Kitô. Nhờ ân huệ Thánh Linh, họ đạt tới độ sung mãn nhân cách của mình và của cả vũ trụ trong Ðức Kitô, nhờ đồng loạt vận hành cả ba đức tin, cậy, mến.”[4]
GIAO ƯỚC MỚI
Chúa về trời để thiết lập một giao ước mới giữa trời và đất. Giao ước nối kết trời đất sẽ đem niềm vui cho muôn loài. Nhờ giao ước này, Chúa hoàn thành tất cả những gì Chúa Cha đã hứa cho nhân loại. Nhưng để giao ước thành hiện thực, cần phải có Thánh Linh do Chúa sai đến. Nhờ Thánh Linh, Chúa Giêsu hoàn thành lời hứa ở với chúng ta luôn mãi. Giáo hội trở thành hiện thân đích thực của Người nơi trần thế. Thân thể Người vẫn sống bằng tình yêu của Người.
Không khám phá thấy Người đang hiện hiện trong bản thân, chúng ta không thể hưởng được niềm vui ngày lễ Thăng Thiên. Trong những giây phút u buồn, Người là sự bình an của chúng ta. “Ðức Kitô chịu khổ hình.” (Lc 24:46) Vì thế, Người hiểu rõ những thử thách chúng ta đang trải qua, như Người vừa nói với các môn đệ. Người ban bình an vào tận tâm hồn sâu thẳm của ta. Dần dần ân sủng của Người làm cho chúng ta trỗi dậy, thở hít làn gió mới. Ðó là kinh nghiệm phục sinh !
Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Chúng ta còn muốn sống viễn miên. Khi Phục Sinh, Chúa cứu chúng ta. Khi Thăng Thiên, Chúa hoàn thành công trình cứu chuộc. Sau khi chấp nhận thân phận con người, Chúa đã lên ngự bên hữu Chúa Cha trên trời. Người đã làm cho sự sống chúng ta gắn chặt vào tình yêu Chúa Cha. Từ nay chúng ta sống hạnh phúc vì tìm thấy trung tâm và sự quân bình của cuộc sống. Chúng ta sống sự sống Thiên Chúa.
Lên Trời, phải chăng Chúa phủi tay với công cuộc cứu độ ở trần gian ? Thực ra, sau khi đã ban niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta, Chúa muốn chúng ta chia sẻ hạnh phúc đó cho tha nhân. Chính vì thế, Chúa trông đợi chúng ta trở thành những “chứng nhân” cho Người, và “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 24:47) Thăng Thiên cũng là lúc Chúa phú thác cho những ai đã được trỗi dậy đem ơn cứu độ cho thế gian. Chúa không muốn biến chúng ta thành những con nợ dưới mắt Người, không những vì Người đã giải thoát, nhưng còn biến chúng ta thành những người giải thoát anh em cùng với Người. Tất cả đều tùy thuộc sức mạnh của chứng từ. Nhưng làm sao có thể làm chứng, nếu không có Thánh Linh ? Chính Thánh Linh “thánh hóa hoàn toàn” từ tận cùng trái đất đến mút cùng chân trời.
Thăng Thiên là mầu nhiệm hoàn thành niềm hy vọng. Chúa đến tận đáy vực thẳm cuộc đời để cứu chúng ta. Người làm cho chúng ta trỗi dậy trong sự sống của Chúa Cha. Nhờ đó chúng ta vĩnh viễn hưởng trọn niềm vui của Chúa. Thánh Phaolô nói: “ Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, Người đã cho chúng ta được cùng sống với Ðức Kitô [...] Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Ðức Kitô Giêsu trên cõi trời.” (Ep 2:4-6) Chúng ta cùng “ngự” bên hữu Thiên Chúa với Ðức Kitô. Sau chặng đường dài đầy tăm tối và thử thách, chúng ta có thể “ngồi” nghỉ ngơi bên Chúa Cha. Từ đây, niềm hy vọng tròn đầy. Thế nhưng, niềm hy vọng chúng ta chỉ thực sự thành tựu khi mọi người sẽ gia nhập Vương Quốc Thiên Chúa. Xin Thánh Linh biến chúng ta thành chứng nhân cho niềm vui Thiên Chúa tới tận cùng trái đất !
NIỀM VUI CHO QUÊ HƯƠNG
Niềm tin nơi Ðức Giêsu không chấm dứt với cảnh Thày trò phân ly. Trái lại, Thày Thăng Thiên để nâng con người lên. Niềm vui tràn ngập khi Thày sai Thánh Linh tiếp tục công cuộc cứu độ nơi trần gian. Phạm vi hoạt động của Thần Khí không đóng khung trong lãnh địa Do thái nữa. Nhưng mục đích vẫn là xây dựng Nước Thiên Chúa dưới trần gian. Giáo hội là phương tiện để Thánh Linh đem công lý và tình thương đến cho muôn dân. Ðúng thế, “Giáo Hội là người bênh vực cho công lý và cho người nghèo.”[5] Khi không thi hành sứ mệnh cao cả đó, Giáo hội phản bội Chúa Kitô và gây hoang mang cho mọi người. Không còn phản chứng nào lớn hơn !
Bởi thế, “những người giáo dân Công giáo phải ý thức trách nhiệm của mình trong đời sống công cộng; họ phải hiện diện trong việc hình thành tiếng nói chung cần thiết và chống lại bất công.”[6] Nhưng làm sao giáo dân có thể ý thức và hành động chống bất công, nếu những vị chủ chăn không hướng dẫn ? Dù ngày nay đã trưởng thành, giáo dân vẫn muốn nghe tiếng nói chủ chăn. Chính vì trưởng thành, nên họ không thể chịu đựng nổi trước những gương mù nơi các vị lãnh đạo nhu nhược. Những người gây chia rẽ Giáo hội không phải là những người dám phê bình xây dựng các nhà lãnh đạo. Chính những người lãnh đạo không lên tiếng đã tạo nên cảnh hoang mang và chia rẽ trong dân Chúa. Khi không khiêm tốn lãnh phần trách nhiệm của mình, chúng ta không thể tạo được sự hiệp nhất cần thiết cho công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Trong bài giảng sáng Chúa Nhật 13/5 vừa qua tại Rôma, có một giám mục Việt Nam, đã kêu gọi cộng đồng Công Giáo Việt Nam trong và ngoài nước gia tăng đoàn kết với nhau. Theo VietCatholic, giám mục có ý nói đến một số người Công Giáo Việt Nam Hải ngoại gần đây đã phê bình Hàng Giáo Phẩm Việt Nam trong vụ linh mục Nguyễn Văn Lý. Giám mục ghi nhận rằng khó khăn mà Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đang gặp phải không đến từ bên ngoài cho bằng từ nội bộ người Công Giáo.[7] GMVN có hoàn toàn vô tội trước cảnh khó khăn của GHVN hôm nay không ? Chỉ thấy các ngài hết đổ tội cho người này đến quy trách những người khác..., chứ tuyệt nhiên không thấy nói gì về trách nhiệm của những vị lãnh đạo cả.
Trong công cuộc tranh đấu hôm nay, “Giáo Hội là người bênh vực cho công lý và cho người nghèo, vì Giáo hội không đồng hoá với các chính trị gia cũng không đứng vào các lợi ích của đảng phái. Chỉ bằng cách đứng độc lập mà Giáo Hội có thể dạy bảo những tiêu chuẩn cao quý và những giá trị bền vững, hướng dẫn lương tâm và trình bày một lập trường chọn lựa sự sống vượt trên bầu khí chính trị. Huấn luyện lương tâm, là trạng sư của công lý và sự thật, giáo dục cá nhân và các đức tính chính trị: đó là ơn gọi nền tảng của Giáo Hội trong những lãnh vực này.”[8] Thử hỏi vừa khuyến khích hay làm ngơ cho các linh mục tham gia Mặt Trận Tổ Quốc và Quốc hội, vừa lên án linh mục Nguyễn Văn Lý, có phải là thái độ độc lập hay khách quan không ? Nếu không vô tư trước những xung khắc hôm nay, các vị lãnh đạo Giáo hội còn có thể “hướng dẫn lương tâm và trình bày một lập trường chọn lựa sự sống vượt trên bầu khí chính trị” không ?
Muốn hiệp nhất Giáo hội, thiết tưởng các vị lãnh đạo nên có thái độ “trước sau như một.” Khi nghiêng quá về nhà cầm quyền, các vị đã chứng tỏ một thái độ thiên lệch. Càng lên án linh mục Nguyễn Văn Lý, các vị càng để lộ lập trường bất nhất. Chẳng lẽ có một số các linh mục được "đặc quyền" miễn thi hành Giáo Luật 287 §2, cấm giáo sĩ làm chính trị ? Tất cả giáo dân chỉ muốn thấy thái độ công bình hơn nơi các vị chủ chăn. Càng thiên lệch càng tạo sự chia rẽ trong dân Chúa. Làm gì có sự thật trong thái độ thiên lệch ấy ! ÐGH Bênêđictô XVI quả quyết : “Chỉ có sự thật mới có thể đem lại hiệp nhất.”[9]
Nói chung, thái độ thiên lệch đó chứng tỏ “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết.” (Gc 2:17) Nếu xác tín Ðức Giêsu Thăng Thiên đang hiện diện sâu thẳm trong tâm hồn và cộng đoàn bằng tất cả sức mạnh Thần Khí, chúng ta đã có thể làm chứng cho mọi người biết rằng “sự hiện diện của Thiên Chúa, tình bằng hữu với Con Thiên Chúa nhập thể, ánh sáng của Lời Chúa luôn là những điều kiện nền tảng cho sự có mặt và tính hữu hiệu của công lí và tình yêu trong các xã hội của chúng ta.”[10] Nếu không đủ xác tín như thế, chúng ta không thể làm cho Thiên Chúa hiện diện thực sự trong môi trường xã hội. “Một xã hội mà vắng bóng Thiên Chúa không thể tìm được một tiếng nói chung về các giá trị luân lí hoặc sức mạnh để sống phù hợp với mẫu mực của các giá trị này, dù cả khi họ gặp xung đột với nhau giữa các lợi ích riêng tư.”[11] Trách nhiệm về ai ?
Nhìn vào gương can đảm của ÐGH Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI, chúng ta sẽ thấy rõ lập trường Giáo hội. Trong cuộc viếng thăm Ba tây vừa qua, ÐGH Bênêđictô XVI đã mạnh mẽ tố cáo : “Cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa Mác-xít đều hứa vạch ra con đường tạo lập những cơ cấu công bình. Họ tuyên bố, một khi được thiết lập, các cơ cấu này sẽ tự hoạt động. Họ cho thấy không cần đặt ưu tiên đạo đức cá nhân, chỉ cần phát huy đạo đức tập thể. Thực tế ai cũng thấy lời hứa do ý thức hệ này cố ý lừa đảo. Thực tế hiển nhiên chứng minh điều đó. Nơi nào Mác-xít nắm chính quyền, không những di sản kinh tế và môi trường sinh thái bị huỷ diệt thê thảm, mà tinh thần con người cũng tan nát. Ðiều tương tự cũng xảy ra ở Phương Tây. Khoảng cách giữa giàu nghèo đang mở rộng, đồng thời mức suy thóai đáng ngại về nhân phẩm vì nạn ma tuý, rượu chè và hạnh phúc đầy ảo tưởng và dối trá đang gia tăng .”
Lạy Chúa, xin Chúa luôn hiện diện trong cộng đoàn CGVN, để chúng con có thể làm cho cả dân tộc trỗi dậy và vươn lên tới Chúa là nguồn vui đích thực. Amen.
đỗ lực 20.05.2007
[1] New Catholic Encyclopedia, 2nd, (1) 2003, tr. 771.
[2] Summa theologiae 3a, 57.6 và ad 2; x. 2Cr 5:16-18.
[5] ÐGH Bênêđictô XVI, Libreria Editrice Vaticana 14.05.2007.
[7] VietCatholicNews 15/05/2007.
[8] ÐGH Bênêđictô XVI, Libreria Editrice Vaticana 14.05.2007.