Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Phúc Âm Nhật Ký
KHI SỰ THẬT LÊN TIẾNG

(Ga 9:1-41) 

Một phép lạ mới xảy ra cho ông Bob McNichol, 57 tuổi ở Quận Mayo miền Tây Nước Ái Nhĩ Lan. Ông cứ tưởng suốt cuộc đời sẽ bị mù vì một vụ nổ cách đây hai năm. Sau khi các bác sĩ tạo hốc mắt và giác mạc giả, ông đã nhìn thấy và có thể xem truyền hình. Kỹ thuật tân tiến đã giúp ông nhìn lại cuộc đời. Ông sung sướng nói : “Tôi đã ra khỏi vùng đêm đen hoàn toàn để có thể nhìn những vật thường ngày.”[1]

Ðó là một sự kiện khoa học. Nhờ kỹ thuật tân tiến, người ta có thể tạo một việc không thua gì phép lạ. Nhưng cách đây hai mươi thế kỷ, làm sao có những kỹ thuật như thế ? Vậy mà Chúa Giêsu đã đem lại ánh sáng cho một người mù bẩm sinh, chứ không do tai nạn. Bên ngoài, hai sự kiện ấy đều giống nhau, nhưng mục đích khác nhau. Chúa Giêsu chữa người mù không phải để anh được hạnh phúc xem thấy thế giới bên ngoài, nhưng cho anh khám phá tất cả những kỳ diệu của ân sủng Thiên Chúa nơi quyền năng cứu độ nhờ con mắt đức tin.  

TỪ ÁNH SÁNG CÔNG LÝ … 

Chúa Giêsu tự xưng : “Thày là ánh sáng thế gian.” (Ga 9:5) Phép lạ làm cho người mù bẩm sinh hôm nay nhằm chứng minh chân lý đó. Phép lạ rất đơn giản : “Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa" (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.” (Ga 9:6-7) Nhưng diễn tiến sau đó mới phức tạp. Thiên hạ bày tỏ bốn phản ứng đối với Chúa Giêsu như sau : các người hàng xóm ngạc nhiên và bi quan. Người Pharisêu tỏ ý hoài nghi và thành kiến. Cha mẹ anh tin, nhưng giữ thinh lặng vì sợ bị trục xuất. Còn anh mù chứng tỏ một đức tin thô sơ nhưng kiên cường.

Anh bắt đầu đối diện với những người Pharisêu. Cuộc điều tra ban đầu khá đứng đắn. Lý do cũng ngay thẳng. Dựa vào sách Ðệ Nhị Luật, họ có lý do lên án những ai làm phép lạ để khinh thường luật ngày sabbát. Ngay khi mới tranh luận, họ đã muốn chứng tỏ mình có lý. Sau đó, họ nhanh chóng chia rẽ nhau, càng lúc càng không hiểu sự kiện người mù bẩm sinh được chữa lành. Cuối cùng họ dùng lý của kẻ yếu, tức quyền lực để mau chóng giải quyết vấn đề.

Cơ chế bất công hiện hữu và tồn tại nhờ gian trá. Bởi thế, họ không ngần ngại vận dụng mọi phương tiện và cơ hội để xây dựng nền móng cho cơ chế bằng sự dối trá. Sự thật là phép lạ Chúa đã làm cho người mù bẩm sinh sáng mắt. Thay vì nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, những người Pharisêu đã tìm cách bẻ cong sự thật, mặc dù không thể phủ nhận sự kiện. Bởi vậy họ tìm cách kéo mọi người về phe mình. Họ muốn mọi người, kể cả anh mù bẩm sinh, phải đồng ý với họ. Nhưng càng hỏi, họ càng phải đối đầu với sự thật.

Không đánh lừa được anh mù, họ quay qua thẩm vấn song thân anh ta. Họ lợi dụng luật dứt phép thông công để gây sợ hãi hầu kéo cha mẹ anh về phe mình. Nhưng tương kế tựu kế, cha mẹ anh đã khôn khéo đẩy trách nhiệm về người con mù.

Cuối cùng, họ phải kêu anh mù tới tìm cách tung cơn hỏa mù để hy vọng anh không nhận ra bản chất, nguồn gốc cũng như quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô. Trước hết, họ dám xác quyết với anh về Chúa Giêsu : “Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi." (Ga 9:24) Giọng điệu cứng rắn đó đã không làm cho niềm tin anh nao núng về quyền năng của Chúa. Ðúng như cha mẹ anh quả quyết, anh đã khôn lớn và đưa lời khai rành mạch và khôn ngoan.

Dù thế, họ vẫn không chịu thua, nên đã hỏi cung anh một lần nữa, với hy vọng sau khi “làm việc” nhiều lần, anh có thể bị sơ hở. Mặc dù bị mắng nhiếc, anh vẫn hiên ngang đối đáp bình tĩnh. Anh xác quyết về quyền năng, đức độ, nguồn gốc của “người bởi Thiên Chúa mà đến.” (Ga 9:33) Nhờ can đảm, anh đã dạy cho người Do thái một bài học. Cuối cùng “họ trục xuất anh.” (Ga 9:34) Anh đã biết trước hậu quả tất yếu đó, nhưng anh vẫn lên tiếng. Chắc chắn cha mẹ anh cũng ngạc nhiên và hãnh diện vì người con trai can đảm hơn mình. Con hơn cha là nhà có phúc !

Càng bị thẩm vấn, khuyến dụ, đe dọa, anh càng can đảm tuyên xưng sự thật. Nhờ đó, anh càng tin tưởng những gì đã cảm nghiệm và hiểu biết về Chúa Giêsu. Chính anh làm chứng : “ Người đã mở mắt tôi!” (Ga 9:30) Câu này đã được nhắc lại chín (9) lần trong bản văn. Trong tiếng Hy lạp, động từ “thấy” rất phong phú, có nghĩa “mở mắt” và “phục hồi thị lực.” Khi mở con mắt hướng về Chúa Kitô, anh đã “thấy.” Nhưng anh chỉ thực sự thấy trong một đức tin toàn vẹn ở cuối trình thuật (Ga 9:35). Lúc này, anh chỉ nhận biết Chúa Giêsu qua danh xưng. Anh dùng lối nói kỳ lạ : “Người tên là Giêsu,” (Ga 9:11) chứ chưa gọi Người là Giêsu (nghĩa là “Ðấng Cứu thế”) !

Cuối cùng công lý đã chiến thắng nhờ sức mạnh chân lý. Bản thân người mù có một cái nhìn rõ ràng về thần học : Chúa Giêsu là một người của Thiên Chúa, một “ngôn sứ” thi hành sứ mệnh đúng với lề luật. Phép lạ chứng tỏ Người không vi phạm luật Thiên Chúa. Nếu không, Thiên Chúa đã không nghe lời Người. Anh châm biếm khi thấy các nhà lãnh đạo tôn giáo không biết “Chúa Giêsu từ đâu tới” mà dám kết án Người là kẻ tội lỗi ! Chỉ vì ghen tương và sợ hãi, họ đã có một cái nhìn thiên lệch. Trái lại, nhìn vào việc Người chữa anh khỏi mù, anh có thể kết luận Người phải phát xuất từ Thiên Chúa.

Tuy đức tin của anh chưa hoàn hảo, nhưng anh đã lãnh đủ mọi hậu quả của một người dám tuyên xưng Chúa Giêsu trước những thế lực trần gian. Ðể củng cố và mở to con mắt đức tin của anh, Chúa Giêsu đã cố tình đến gặp anh, ngay sau khi anh bị trục xuất. Chính vì anh can đảm nói lên sự thật và phục hồi công lý, nên Chúa đã đến mời gọi anh đi sâu vào mầu nhiệm cứu độ.

Ngay khi gặp lại, Chúa đã đặt vấn đề đức tin với anh : "Anh có tin vào Con Người không ? " (Ga 9:35) Ðây là kỹ thuật Chúa áp dụng để khơi dậy và đào sâu niềm tin nơi anh. Nghe lời Người truyền dạy, anh đã đón nhận được phép lạ và đã nhận ra Người là ngôn sứ đến hoàn thành giao ước đầu tiên trong Cựu ước. Nhưng để thấy được Chúa Con nơi cung lòng Chúa Cha và đang cư ngụ giữa chúng ta, anh cần phải mở mắt linh hồn. Chúa Giêsu hãnh diện tự xưng là Con Người xứng đáng với niềm tin của anh : "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây." (Ga 9:37) Lập tức, “anh sấp mình xuống trước mặt Người.” (Ga 9:38)

Tất cả con người anh hoàn toàn thay đổi. Thay đổi đến nỗi anh cũng không thể tin nổi : “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.” (Ga 9: 32) Cả láng giềng cũng kinh ngạc đến nỗi không đồng ý với nhau về anh. Không phải chỉ có con mắt, nhưng cả linh hồn anh đã đón nhận thần khí mới, vì ngón tay Thiên Chúa đã chạm đến thân xác anh. Một cuộc tạo dựng mới đã xảy ra. Trong cuộc  tạo dựng đầu tiên, Thiên Chúa đã chạm tới khối đất sét để làm nên con người. Giờ đây Chúa cũng đụng tới phần thô sơ nhất của con người để họ được tham dự vào bản tính Thiên Chúa và hiểu sâu xa toàn thể sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu nơi trần gian. Người đến chẳng qua để cứu con người khỏi vòng tội lỗi. Tất cả đều tùy con người nhận biết hay không nhận biết Chúa Giêsu mà thôi. Những người Pharisêu đã tự cản trở mình trước luồng sáng lớn lao đó và ngăn cản Thiên Chúa hành động để cứu vớt họ.

Sau khi “Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù,” (Ga 9:6) anh đã hoàn toàn biến đổi để nhận ra “Thầy là ánh sáng thế gian." (Ga 9:5) Cuộc biến đổi này sâu xa như cuộc biến đổi đầu tiên của nguyên tổ, từ bụi đất trở thành người. Anh đã được chữa khỏi mù để nhìn thấy tất cả lòng thương xót Thiên Chúa nơi dung nhan Ðấng cứu thoát trần gian khỏi vòng tội lỗi. Người là ánh sáng chiếu soi vào lòng người và lòng đời.  

… ÐẾN ÁNH SÁNG ÐỨC TIN 

Như vậy, người mù bẩm sinh đã nhìn thấy hơn tất cả những ai sáng mắt. Chúa xuất hiện trước mắt anh còn chói sáng hơn khi hiển dung trên núi cho các tông đồ nữa. Quả thực, trên núi biến hình, các tông đồ không tỏ ra kinh ngạc bằng anh và cũng không xác tín như anh ngay sau khi nhìn thấy mọi sự nhờ phép lạ Chúa làm cho anh. Sau khi đã thoát cảnh mù tối thực sự của người Pharisêu, anh đã bắt đầu nhìn thấy và hành động.

Như thế, rõ ràng Chúa làm phép lạ để nâng cao nhân phẩm của anh và đưa anh vào mầu nhiệm Con Người là Ðức Kitô. Tại sao ? “Vì huyền nhiệm Chúa Kitô soi sáng mầu nhiệm về con người, nên huyền nhiệm Chúa Kitô đem lại ý nghĩa sung mãn cho nhân phẩm và cho những điều kiện sống đạo đức để bảo vệ nhân phẩm ấy. Học thuyết xã hội của Giáo hội là kiến thức được đức tin soi dẫn. Tự bản chất, đức tin diễn tả cho kiến thức thấy có một khả năng lớn lao hơn. Ðức tin giải thích cho mọi người những chân lý được xác quyết và những bổn phận đòi buộc. Ðức tin có thể được mọi người chấp nhận và chia sẻ.”[2] Chỉ cần một tấm lòng chân thành, khiêm tốn và can đảm như anh mù, ai cũng có thể sống đức tin dễ dàng. Trái lại, nếu kiêu ngạo và  nhát sợ, con người không thể nhìn thấy những điều kỳ diệu của đức tin. Bởi đâu anh mù có thể can đảm tới mức đó, nếu không vì đức tin đã soi dẫn cho anh thấy tất cả sự thật ? Sự thật đã giải thoát anh khỏi mọi sợ hãi. Nhờ đức tin, anh đã có những đức tính cần thiết để bảo vệ chân lý và nâng cao nhân phẩm. Anh thật là một mẫu gương cho những ai muốn sống và làm chứng cho đức tin.

Chính nhờ Chúa Giêsu lấy bùn đất ở đường phố Giêrusalem xức mắt anh, một cuộc tạo dựng mới đã xảy ra trong anh. Anh hoàn toàn biến đổi. Anh bắt đầu thoát khỏi tình trạng thụ động để lên tiếng nói với chính mình. Anh còn dám chất vấn cả những người Pharisêu đã từng thẩm vấn anh. Nhờ sáng mắt, anh càng nhìn sâu vào bản chất con người Chúa Giêsu và quà tặng Chúa mang đến.

Bởi đó, cuộc sống mới của anh không do cha mẹ hay huyết thống theo Luật Môsê, nhưng do ân huệ tự nhiên từ cuộc gặp gở Chúa Giêsu. Khi quỳ xuống thờ lạy Chúa, anh nhìn nhận Người không chỉ là nguyên nhân làm cho anh sáng mắt, nhưng quan trọng hơn, Người là nguồn gốc phát sinh toàn thể cách sống mới.

Trong Chúa Giêsu, chúng ta được nâng lên cuộc đời mới. Như người mù đã có thể theo cách cảm nghiệm mới về trần gian, chúng ta cũng nhận đươc một khả năng mới để sống một cách sâu xa hơn, để nhận thức thế giới quen thuộc quanh ta trong ánh sáng lạ thường của Chúa Giêsu, Ðấng muôn đời là Ánh sáng trần gian.

Ánh sáng đó cho thấy “con người có nhân phẩm vì giống hình ảnh Thiên Chúa. Con người có khả năng tự nhận thức, tự do hiến thân và hiệp thông với tha nhân. Hơn nữa, con người còn được mời gọi lập giao ước với Tạo Hóa, để lấy đức tin và tình yêu mà hiến dâng cho Người. Không một tạo vật nào khác có thể hiến dâng thay họ được.”[3] Chính vì thế, “chỉ con người mới có khả năng đón nhận Thiên Chúa.”[4] Nếu không, anh mù không bao giờ có thể đi từ một thay đổi thể lý nơi con mắt sang một biến đổi về tinh thần để hoàn toàn tin tưởng Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian.

“Vì giống Thiên Chúa, nên tự cơ bản, yếu tính và sự sống con người có quan hệ với Thiên Chúa một cách sâu xa nhất. Toàn thể cuộc sống con người là một cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Người ta có thể bác bỏ, lãng quên hay bỏ qua, nhưng không bao giờ có thể loại trừ mối tương quan với Thiên Chúa.”[5] Thế nên, khi Chúa Giêsu khơi dậy niềm tin, lập tức anh mù phủ phục tôn thờ Người. Nếu không có mối tương quan sâu xa với Chúa, làm sao anh có thể nhanh chóng đáp ứng như vậy ?

Trong khi đó, những người Pharisêu vẫn ngoan cố phủ nhận mối liên hệ nơi Chúa Giêsu. Dù đã thấy những bằng chứng rõ ràng về phép lạ nơi người mù, họ cố tình bôi đen hình ảnh Chúa Giêsu. Không biết gì về Chúa, nhưng họ vẫn ngang nhiên quả quyết :  “chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi." (Ga 9:24) Còn bất công nào lớn lao hơn ?

Ðối lại luận chứng bất công ấy, anh mù đã khẳng khái quả quyết Chúa Giêsu là một ngôn sứ “làm theo ý của Thiên Chúa,” (Ga 9:31) và “bởi Thiên Chúa mà đến.” (Ga 9:33) Khác hẳn với Chúa, những người Pharisêu chỉ tìm cách bắt mọi người tuân giữ luật Sabbat hơn là làm theo thánh ý Thiên Chúa. Chính vì thế, họ tự tách xa con người Ðức Kitô. Thay vì dành thời giờ suy tư, họ chẳng đưa ra được lý chứng nào, mà chỉ theo thói “cả vú lấp miệng em.” Kết cục họ dùng biện pháp mạnh để trục xuất anh mù ra khỏi hội đường. Nhưng ai là người bị trục xuất ra khỏi vòng tay tình yêu Thiên Chúa ? Ðó mới là điều quan trọng. 

NHÂN QUYỀN 

Dù bề ngoài ai cũng thấy sự kiện sáng mắt của anh, nhưng những gì đang diễn ra trong tâm hồn mới đáng kể. Chính vì những biến cải sâu xa và toàn diện đó, anh mới có thể đưa ra những lập luận và chứng từ phản bác những lối lý luận ấu trĩ và đầy bất công của những người Pharisêu. Cơ chế bất công chỉ chạy quanh sự kiện, chứ không dám đối đầu trực tiếp với sự thật.  Họ lấn cấn không biết làm sao thuyết phục anh mù coi ngày sabbat là luật tối thượng.

Vì  thiếu đức tin và lòng chân thành, những người Pharisêu không thể nhìn thấy rõ thực tại và công nhận sự thật về con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Những diễn biến trong tâm hồn anh mù, làm sao họ thấy được ? Nhưng dưới ngòi bút sắc sảo của thánh Gioan, tiến trình đó thật là ngoạn mục. Riêng anh, khi được hỏi về vị ân nhân của mình, anh đáp : "Người là một vị ngôn sứ!" (Ga 9:17) Ðức tin đã hé mở cho anh thấy một điều kỳ diệu, vượt xa những thực tại tầm thường vật chất. Phép lạ sáng mắt là dấu chỉ một quyền năng cao cả Thiên Chúa đang tỏ hiện nơi Ngôn sứ Giêsu. Con mắt đức tin đã nhìn thấy rõ vị trí của Chúa giữa nhân loại. Nếu Chúa Giêsu là một ngôn sứ, phép lạ phải là một mạc khải rõ ràng về lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhưng như thế cũng chưa diễn tả được tất cả sự thật về con người Chúa Giêsu. Bởi thế, cần phải gặp gỡ Chúa, anh mới có thể nhận ra  sứ mệnh “Con Người.” Nhờ đó, anh thực sự vươn lên làm người. 

Trái lại, vì không có lòng thương xót như Chúa, những con người duy luật và duy ý chí như phái Pharisêu không thể giúp con người đạt tới chiều kích “Con Người.” Anh mù là nạn nhân tiêu biểu của những cơ chế bất công từ xưa tới nay. Có thể tìm thấy những nạn nhân đó trong các tòa án tại Việt Nam hiện nay. Tin tức mới nhất cho biết “tòa án Việt Nam vừa phủ quyết sự kháng án của bốn người hoạt động đòi hỏi dân chủ sau khi họ đã giúp thành lập công đoàn lao động độc lập với nhà nước và đã phát những truyền đơn kêu gọi dân chủ cho Việt Nam. Theo tin tức trên báo chí ghi nhận được, thì bốn người Trần Thị Lê Hồng, Phùng Quang Quyền, Đoàn Văn Diễn và con trai ông ta Đoàn Huy Chương đã thu thập những khiếu nại về chuyện nhà nước vi phạm quyền đất đai của người dân và chuyển cho báo chí nước ngoài, bao gồm Đài Á châu Tự do. Ngoài ra, họ cũng bị kết tội phân phát truyền đơn chống chính phủ trong một cuộc họp ở Hà Nội trước buổi họp thượng đỉnh Hợp tác Kinh tế Á châu-Thái bình dương (APEC) vào tháng Mười Một năm 2006. Họ bị kết án chiếu theo Điều 258 của luật hình sự Việt Nam, theo đó cấm “lạm dụng tự do dân chủ để xâm phạm những quyền lợi nhà nước.” [6] “Đáng chú ý là dù xử phúc thẩm, nhưng tại toà, cả 4 người đều không có luật sư bênh vực.”[7] 

Tại sao thế ? Chính quyền sợ nghe sự thật. Chính quyền chỉ lo bảo vệ quyền lợi của một đảng có nhiều những kẻ ăn cướp, hối lộ, tham nhũng, lộng quyền. Bởi thế, “khi chúng ta phê bình những mặt tiêu cực của một xã hội, những sự sai trái của một chế độ, những sự vi phạm luật pháp, những sự tham nhũng, thì đó không phải là nói xấu chế độ mà đó là những vấn đề cần thiết để đưa xã hội và đất nước đến chỗ khá hơn, bảo vệ cho sự trong sáng của một chế độ, bảo vệ cho xã hội đựơc văn minh. Trong bối cảnh như vậy thì nó không phải là nói xấu chế độ hay là tuyên truyền để lật dổ chế độ, mà nó nằm trong mục tiêu là phải có tự do báo chí, phải có tự do ngôn luận, phải có tự do đảng phái và như vậy mới đưa đất nước đến chỗ quân bình trong trật tự mà không ai có thể vi phạm luật pháp của đất nước. Thành ra trong chiều hướng như vậy thì không thể nói rằng những sự đấu tranh của các đảng phái đối lập với Đảng CSVN là sự tuyên truyền hoặc là nói xấu chế độ, mà nó nằm trong hướng xây dựng đất nước theo quỹ đạo tôn trọng luật pháp để cho Việt Nam đi vô chiều hướng tự do dân chủ và tôn trọng nhân quyền.” [8]

Con đường phục vụ dân tộc đúng đắn nhất phải dẫn tới quyền lợi chung của toàn dân. Thật vậy, “công đồng chính trị theo đuổi công ích khi tìm cách tạo lập một môi trường nhân bản giúp công dân có thể thực sự thi hành nhân quyền và hoàn thành trọn vẹn những bổn phận tương ứng.”[9] Xưa cũng như nay, những người Pharisêu và nhà nước Cộng sản có tạo một môi trường như thế không ? Nếu có tại sao con người không thể sống như con người ? Nếu chiều theo ý đồ những người Pharisêu, anh mù có thể lớn lên trong niềm tin vào Chúa Kitô không? Nếu thực sự muốn nhắm đến công ích của toàn dân, tại sao chính quyền lại bắt giam những nhà đấu tranh dân chủ ? 

Tóm lại, Chúa đã đem anh mù bẩm sinh ra khỏi tình trạng tăm tối. Anh đã thấy. Ánh sáng đã òa vỡ trong cuộc đời anh. Ánh sáng đã thay đổi không phải chỉ thân xác, nhưng cả cuộc đời và nhất là tâm hồn anh. Ðứng trước sự kiện khách quan đó, người ta đã có nhiều thái độ khác nhau. Từ nghi ngờ, chia rẽ, nhát sợ đến áp lực, sau cùng cưỡng bức và trục xuất con người dám nói sự thật. Tất cả chỉ vì muốn áp đặt một thứ lề luật loài người lên ý định của Thiên Chúa.. Thế nhưng, nhờ lòng tin của anh mù, sự thật đã chiến thắng. Cũng nhờ lòng tin, anh đã được gặp gỡ Chúa, đi sâu vào huyền nhiệm Con Người và tham dự vào sứ mệnh cứu độ. Nếu cũng nhát sợ như cha mẹ trước quyền lực hay hùa theo đám đông, không bao giờ anh có thể gặp gỡ Chúa sâu xa đến như thế. 

Lạy Chúa, xin sai Thần Khí đến để chúng con có thể mạnh dạn nói lên sự thật và làm chứng cho Chúa trước mặt trần gian.  Xin cho chúng con ngày càng thấu hiểu và đi sâu vào mầu nhiệm cứu độ để có thể rao giảng cho mọi người biết Chúa là Ðấng đầy lòng xót thương. Amen.

đỗ lực 02.03.2008


[2] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 75.

[3] ibid., 108.

[4] Giáo Lý Công Giáo, 27.

[5] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội , 109.

[8] ibid.

[9] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 389.

Tác giả:  Phúc Âm Nhật Ký, Lm. Đỗ Lực, op.

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!