Nhất quỷ nhì ma,
Thứ ba tu xuất.
Lời đồn đại cứ tưởng sai ngoa!
Tiếng xầm xì ngờ đâu đúng thật .
Từ loắt choắt, đã ăn cơm chủng viện căng mồm,
Đến loai choai, còn uống nước nhà dòng nứt ruột.
Cũng ê a hôm sớm kệ kinh,
Cũng ra rả sáng chiều tu đức..
Tưởng rằng thẳng mặt, dung dăng dung dẻ theo cày!
Ngờ đâu ngóai đầu , ngủng ngủynh dùng dằng buông cuốc.
Nghịch như ma âm phủ, so ra đồng lạng đồng cân.
Phá tựa quỷ nhà chay, sánh lại ngang tài ngang sức.
Nửa người nửa ngợm kiếm lối chém vè.
Ba cọc ba đồng tìm đường tẩu thóat.
Cũng có anh: Gọi dạ bảo vâng!
Thật thà chơn chất.
Cung cúc dưới trên!
Nhịn nhường sau trước.
Cũng có anh: Mồm giải mép loa!
Khẩu xà tâm phật.
Dưới rứa trên răng (!)
Trong da ngòai ruột.
Cũng có anh: Học một hay mười,
Mẫn minh thông suốt.
Giỏi giớm thiên tài,
Hay ho kiệt xuất.
Thế nhưng :
“La loi xét la loi!”
“Lề luật là lề luật!”
Người gọi thì nhiều, cứ sảy cứ sàng,
Kẻ chọn thì ít, cứ đong cứ lọc.
Lũ trẻ thơ, ăn chửa biết no, lo chưa biết tới hồn nhiên!
Bày con nít, ăn không nên miếng, nói chẳng lên lời thưa thốt.
Cứ tháng tháng từng đứa đứa ra đi,
Cứ năm năm lại thằng thằng biến mất.
Đêm chưa sáng,, thảng thốt sợ bề trên!
Ngày chửa hôm, mơ màng e giám luật.
Muốn nên người chài lưới, sao Chúa nỡ thải hồi?
Mong thành kẻ hái liềm, sao Trời đành trục xuất?
Tuổi mười lăm mười bảy, nhà tu đá đít quặn lòng,
Tuổi năm bốn năm ba, cửa tục chổng mông sốt ruột.
Mắt ướt đoanh tròng!
Cổ khô nghẹn nấc.
Đeo mang tai tiếng “Phá gia chi tử” bực mình,
Gánh ách thị phi “ Nghịch tử vô tâm” tức uất.
Có đúng chăng: Nhiều hệ lụy, đường chánh quả liêu xiêu ?
Hay chắc phải : Vụng đường tu, nẻo thế trần lập cập ?
Hòan cõi tục uống ngụm nước đục bùn,
Hồi thế trần ăn gắp cơm ô trọc.
Thì bùn đục! Tớ quậy tới bến tới cùng,
Thì trọc ô! Ta chơi ra trò ra mặt.
Vang danh nhà xứ: cứng cổ –- cứng đầu!
Nổi tiếng xã thôn: rắn mày - rắn mắt.
Dương bản mặt, nháo nháo nhâng nhâng,
Vểnh râu tơ, lấc ca lấc cấc.
Oc mượn hồn, nhăn nhở đười ươi,
Dưa lộn kiếp, láo liên khỉ đột.
Khoa môi múa mỏ Trạng Lợn –- Trạng Quỳnh,
Vỗ ngực xưng tên Thần Siêu –- Thánh Quát.
Học xàm tựa vẹt Thị Điểm - Xuân Hương,
Nói phét như rồng Ba giai –- Tú Xuất.
Nhà thờ nhà thánh chây lười,
Hội nọ đòan kia nhếch nhác.
Lời khuyên nhủ nước đổ lá khoai,
Câu dậy răn gió bay tuốt tuột.
Chẳng khi nào dòng tộc được nở mặt nở mày!
Không có lúc mẹ cha vơi héo gan héo ruột.
Kẻ chê cười ta cần quái cười chê,
Người trách cứ ta cóc thèm cứ trách.
Thời niên thiếu, cạn tàu ráo máng rong chơi.
Lúc trưởng thành, bước quáng bước quàng trật giuộc.
Thời thời thế, thẫn thờ đi dạo hành lang,
Thế thế thời, tức khí lao thân chiến cuộc.
Thằng cụt thằng què,
Đứa còn đứa mất.
Thằng vào nhà lao,
Đứa về ruộng đất.
Đứa cúi đầu cạp đất, sống dang sống dở, nương rẫy cam phận ngựa trâu,
Thằng cắm cổ vượt biên, chết xuống chết lên, biển khơi đối đầu hải tặc.
Người còn tu, vất va vất vưởng, lao đao,
Kẻ đã xuất, lận đận long đong, quần quật.
Sông có khúc, người có lúc, quả mướp đắng ráng nhai,
Nước có con, gió có cơn, trái bồ hòn cố nuốt.
Thì thôi yên phận vợ con,
Đành nhẽ cam phần gia thất.
Lo toan con trẻ đầu cuộc mở mày,
Hầu hạ mẹ cha, cuối đời nhắm mắt.
Thời quá khứ, suy đi đấng bậc khắt khe,
Đến bây giờ, nghĩ lại bởi ta quá quắt.
Tu mà dạ chẳng thanh, hổ phận đời tu!
Tục mà lòng không trọc, an phần cõi tục.
Tình không hẳn dây oan,
Tu chắc gì cội phúc.
Bạn đồng sàng , nỡ nào phân biệt dưới trên,
Người dị mộng , lẽ đâu tị ganh sau trước.
Cơn bĩ cực biệt ly đứa mầt đứa còn.
Hồi Thái lai xum họp thằng cười thằng khóc.
Mừng mừng mươi đầng trọc đầu !!!
Tủi tủi trăm ngài tu xuất!!!…
Đón xuân 2005.
Nghiệt Chướng