IX. Môi Trường, Cộng Đồng Quốc Tế, và thực hành HTXH (311- 369)
101. Kinh Thánh nói lên ý nghĩa của môi trường như thế nào?
Sách Sáng Thế đoạn 1 câu 25 miêu tả, “Và Thiên Chúa thấy tất cả đều tốt đẹp.” Những lời này của trang đầu Kinh Thánh tỏ cho chúng ta thấy ý nghĩa của những gì Thiên Chúa đã làm, và sau đó chính Ngài đã trao đặc quyền cai quản mặt đất cho con người (cf. St 2:15). Điều này cho thấy mỗi con người đều có một trách nhiệm cụ thể trong lãnh vực môi trường sinh thái. Con người có trách nhiệm với môi trường mà Thiên Chúa ban cho họ nhằm để phẩm giá và sự sống của họ được hoàn thiện trong chính môi trường ấy. Con người có trách nhiệm bảo vệ môi trường không chỉ giới hạn trong hiện tại, nhưng cũng còn có trách nhiệm đối với thế hệ tương lai (cf. Evangelium Vitae, # 42). Vậy khi chu toàn bổn phận này, con người có khả năng vượt qua lối sống ích kỷ là nguyên nhân dẫn tới việc huỷ diệt những tài nguyên tự nhiên (cf. Ecclesia in America, # 25).
102. Thế giới hôm nay phải đối diện những vấn đề môi trường như thế nào?
Thực tế cho thấy, hậu quả của việc khai thác các nguồn tài nguyên một cách bừa bãi với một tinh thần thống trị tuyệt đối đã gây ra mối nguy hại vô cùng nghiêm trọng không chỉ cho thế hệ hôm nay mà còn cho thế hệ tương lai. Tất cả chúng ta đều nhìn thấy hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của nền công nghiệp hoá. Chúng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường và tác hại nghiêm trọng cho sức khoẻ con người (cf. Sollicitudo Rei Socialis, # 34). Như thế, việc phát triển công nghiệp mà thiếu ý thức về môi trường thì góp phần vào việc huỷ diệt hơn là xây dựng.
103. Môi trường có liên quan đến đạo đức không?
Thưa có, chúng ta cần nhớ rằng, quyền cai quản mà Thiên Chúa ban tặng cho con người không phải là một quyền tuyệt đối; cũng không phải là sự tự do muốn thì dùng không muốn thì bỏ đi như ý mình. Nhưng ngay từ đầu, Thiên Chúa đã đặt con người trong giới hạn của loài thọ tạo bằng hình ảnh không được ăn trái cấm (cf. Gn 2:16-17). Như vậy, vấn đề môi trường không chỉ đơn thuần là vấn đề sinh học, nhưng cũng là vấn đề luân lý, đạo đức (cf. Sollicitudo Rei Socialis, # 34).
104. Nguyên nhân sâu xa của sự huỷ diệt môi trường do từ đâu?
Trong tâm thức của con người hôm nay mang hai nỗi âu lo. Một mặt họ lo lắng về vấn đề môi trường, mặt khác họ cũng lo lắng về sự an toàn hưởng thụ của họ. Con người hôm nay muốn sở hữu và hưởng thụ hơn là muốn lớn lên trưởng thành. Con người sử dụng các nguồn thiên nhiên và bản thân họ một cách thái quá và rối loạn. Thực ra cốt lõi của sự phá hoại tài nguyên thiên nhiên bắt nguồn từ sự nhận thức sai lầm của loài người; nhưng thật không may điều này ngày càng lan rộng trong thời đại chúng ta. Con người nhận thức rằng mình có khả năng để cải tạo thế giới nhưng họ lại quên rằng khả năng này phải dựa vào Thiên Chúa. Chính vì thế, thay vì thực hiên vai trò là người cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng, con người lại muốn thế chỗ Thiên Chúa; họ muốn áp đặt hơn là phục tùng Người (cf. Centesimus Annus, # 37). Đó chính là nguyên nhân sâu xa của thảm trạng cho môi trường của thế giới loài người hôm nay.
105. Môi trường liên quan đến phẩm giá con người ra sao?
Việc thúc đẩy phẩm giá con người liên quan đến việc tái tạo một môi trường lành mạnh. Vì thực ra quyền này nêu bật tính đa dạng của mối quan hệ giữa mỗi cá nhân và cộng đồng xã hội. Thế giới hiện tại và tương lai phụ thuộc vào sự ổn định môi trường, bởi vì con người và môi trường có một mối liên hệ vô cùng chặt chẽ. Đặt con người vào trung tâm của những vấn đề môi trường là cách thức chắc chắn nhất để ổn định môi trường (cf. World Day of Peace Message, 1999, # 10).
106. Gia đình nhân loại gồm những ai?
Theo mạc khải từ Kinh Thánh, Thiên Chúa tác tạo người nam và người nữ theo hình ảnh của Người. Mối giây liên kết giữa con người với Đấng Tạo Hóa đảm bảo cho người nam và người nữ phẩm giá và những quyền căn bản không gì có thể thay thế được. Những quyền này hiển nhiên là nhằm hướng đến những người khác. Không một cá nhân, tổ chức hay chính quyền nào được phép tước đoạt những quyền căn bản này. Nguồn Mạc Khải đã khẳng định rằng: mọi người đều được Thiên Chúa tạo dựng và cùng chung một cội nguồn. Như thế, dù hoàn cảnh lịch sử có làm cho con người phân tán hay thậm chí có sự khác biệt giữa con người với nhau, thì theo kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa, mọi người cùng thuộc về một gia đình nhân loại; mọi người đều thuộc về Thiên Chúa (cf. The Church and Racism, # 19–20).
Như thế, khi chúng ta ý thức mọi người đều chia sẻ chung một người Cha, cùng là anh em trong Đức Kitô và cùng hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ có một cái nhìn mới về thế giới và vạn vật trong mối hiệp nhất liên kết với nhau (cf. Sollicitudo Rei Socialis, # 40).
107. HTXH đề cập về tự do mậu dịch trong quan hệ quốc tế như thế nào?
Tất cả mối liên hệ giữa các cộng đồng quốc gia với nhau cũng như trên bình diện quốc tế, cần phải được thiết lập dựa trên sự công bằng. Mối quan hệ này không được ỷ vào sức mạnh, nhưng vượt xa hơn, đó là cùng đi đến sự thoả thuận với nhau nhằm phục vụ cho mục đích thiện hảo. Nếu mối quan hệ chỉ dựa vào quyền lực thì không bào giờ có thể thiết lập sự công bằng một cách lâu dài và bền vững được. Quả thực, dùng quyền lực chỉ sẽ tạo thêm sự phản kháng và tư đó dẫn tới bạo lực (cf. Octogesima Adveniens, # 43).
Thực tế cho thấy, có sự khác biệt rất lớn giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển trong lãnh vực mậu dịch thương mại. Vì thế, mối quan hệ này cần phải có tính nhân bản, đạo đức và công bằng xã hội. Điều này sẽ tạo ra những cơ hội bình đẳng cho những quốc gia tham gia. Muốn đạt được điều đó, hai bên cần có những cuộc đàm phán dựa trên tính bình đẳng một cách thực sự. (cf. Populorum Progressio, # 61).
108. Chúng ta cần hiểu khái niệm “hòa bình” như thế nào?
“Hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ được giản lược vào sự quân bình hóa giữa các lực lượng đối phương, cũng không phát xuất do một nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng định nghĩa thì hòa bình là "công trình của công bằng" (Is 32,7). Hòa bình là kết quả của một trật tự đã được chính Thiên Chúa, Ðấng Sáng Lập, ghi khắc vào xã hội loài người và phải nhờ những người luôn luôn khao khát một nền công bằng hoàn hảo hơn thể hiện ra trong hành động... Như thế, hòa bình không bao giờ đạt được một lần là xong, nhưng phải xây dựng mãi mãi.
Như vậy, hòa bình ấy chỉ có được trên trần gian, nếu giá trị của từng cá nhân được đảm bảo và mọi người tin tưởng cũng như tự nguyện san sẻ cho nhau những của cải tinh thần và tài năng của họ. Ý chí cương quyết muốn tôn trọng người khác, những dân tộc khác cũng như phẩm giá của họ và sự ân cần thực thi tình huynh đệ là những điều kiện thiết yếu để xây dựng hòa bình. Như thế, hòa bình cũng là kết quả của tình thương, một thứ tình thương vượt xa những gì công bằng có thể đem đến” (Gaudium et Spes, # 78).
109. Giáo hội có trách nhiệm gì đối với những người nhập cư?
Chúng ta cần thừa nhận rằng, Hoa Kỳ là quốc gia có nhiều kinh nghiệp trong vấn đề nhập cư, tị nạn. Những người tị nạn mang theo giá trị văn hoá và tôn giáo của họ. Vì thế Giáo hội Hoa Kỳ cần ý thức sứ mạng của mình bằng cách bảo vệ quyền lợi của những người nhập cư và tôn trọng phẩm giá của họ. Những người này cần được đón tiếp với lòng hiếu khách và khuyến khích họ trở thành phần tử của Giáo hội địa phương. Dầu vậy, việc này cần phải tôn trọng sự tự do và nét văn hoá đặc thù của họ (cf. Ecclesia in America, # 65).
110. Giáo hội mời gọi con cái mình thực thi HTXH như thế nào?
Giáo hội không gởi đến con cái mình HTXH như chỉ là những lời dạy lý thuyết. nhưng trên hết, HTXH làm nền tảng và động lực cho con cái mình hành động. Quả vậy, nhờ vào sứ điệp Phúc Âm về vấn đề xã hội, những tín hữu sơ khai đã chia sẻ của cải cho người nghèo. Điều này cho thấy, dù có sự khác biệt giữa con người với nhau, nhưng chúng ta vẫn có thể sống chung với nhau trong đầm ấm, hòa bình.
Hơn lúc nào hết, Giáo hội ý thức rằng hành động sẽ tạo ra sự tin tưởng và tính nhiệm hơn, thay vì chỉ là lời giảng dạy về lý thuyết. Mỗi người hãy xét mình xem mình đã làm những gì mà mình có bổn phận phải làm. Nếu chỉ nêu ra những nguyên tắc, khái niệm hoặc chỉ ra những sự bất công và kết án nhau, thì những khái niệm này sẽ vô nghĩa; vì thực ra mỗi cá nhân cần ý thức trách nhiệm của mình bằng những hành động cụ thể sống động (cf. Centesimus Annus, # 57).
Niềm hy vọng của người Kitô hữu chính là niềm tin nơi Thiên Chúa, Đấng đang hành động trong thế giới loài người qua Giáo hội là thân thể của Ngài; đồng thời qua Giáo hội, toàn thể nhân loại sẽ được hưởng ơn cứu độ. Ngoài ra, niềm hy vọng này cũng bắt nguồn từ sự thật rằng mọi người khác khi đảm nhận phận vụ mình, họ cùng nhắm đến một mục đích chung nhằm phục vụ cho công lý và hòa bình. Thực ra, bên dưới những thái độ dửng dưng thì tự trong thâm tâm mọi người, họ đều có chung một ý nguyện sống với nhau trong tình huynh đệ và cùng khao khát cho công lý và hòa bình (cf. Octogesima Adveniens, # 48).
Lời cám ơn
Xin Chúa chúc lành cho những tâm hồn đang thao thức sống HTXH mà phải trả giá bằng mạng sống, lao tù, ngược đãi. Ước chi những hạt giống ấy sẽ góp phần nở thêm hoa công bằng và bái ái cho Việt Nam.
Br. Huynhquảng