Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH, Gp Bùi Chu
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Tâm Lý Giáo Dục
CHUNG SỐNG

  

Người Việt chúng ta có câu: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Trước năm 1975 tôi đã có dịp học và sống ở Huế 3 năm. Tôi đã từng thấy nhiều gia đình ở Xóm Đò sống trên những chiếc thuyền. Mái ấm gia đình của họ là một chiếc thuyền nho nhỏ với tất cả mọi thứ được chất chứa trong đó. Để có thịt gà ăn, họ cố gắng nuôi một vài con gà. Vì không có đủ chỗ, nên họ cho gà con vào ống tre hoặc trái bầu treo vào mái thuyền để nuôi, đầu gà thò ra ngoài để ăn uống, còn thân mình nằm bên trong. Khi lớn lên, những con gà trong ống thì dài ra theo hình thể của ống, còn những con gà trong bầu thì tròn trịa. Đó là những chuyện đặc biệt ở Huế. Có lẽ vì thế nên ta có câu: “Ở bầu thì tròn ở ống thì dài.” Nhưng câu nầy cũng có nghĩa là: “Xã hội nào cũng tạo nên những con người mang nhiều đặc nét của xã hội đó.” Xã hội cộng sản tạo nên những người cộng sản và xã hội tư bản tạo nên những con người tư bản. Những người cộng sản dễ dàng sống chung với những người cộng sản và những nhà tư bản dễ chung sống với những người tư bản hơn cộng sản. Xã hội góp phần trong việc làm nên cá tính con người. Alfred Adler là người đầu tiên đã khám phá ra xã hội tính của mỗi người có ảnh hưởng rất nhiều đến sự hài hòa và hạnh phúc của cuộc đời chung sống trong đời sống hôn nhân của họ. 

Đối với các nhà tâm lý, tất cả những trục trặc trong vấn đề hôn nhân đều phản ảnh chính con người của họ dưới hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất liên quan đến những cá nhân liên hệ và cá tính của con người họ. Khía cạnh thứ hai liên quan đến kỷ thuật và phương cách họ dùng trong việc đối xử với nhau. Có thể thấy được lý do cho những hành động của mỗi người và bản chất của những khó khăn bằng cách hiểu rõ sự phát triển của cá nhân mình, mẫu sống của cuộc đời mình, sự huấn luyện và mức độ hiểu biết của mình. Cũng vậy, vì những khó khăn mang đặc tính xã hội nên việc nhận biết những tương quan hành động cũng như những tương quan liên hệ giữa con người với nhau rất cần thiết để giúp chúng ta hiểu thêm vấn đề. Alfred Adler là người đầu tiên đã cho thấy những trục trặc và những xung đột cá nhân có liên quan đến bản tính xã hội của họ. Trong cố gắng để tìm hiểu nguyên nhân của bệnh nhân, ông đã khám phá ra cái đạo lý của cuộc sống chung. Ông chủ trương cần phải có những luật lệ và phải được tuân giữ cho cuộc sống chung nếu người ta muốn có sự hài hòa sum hợp với nhau. Những qui luật cộng tác thật rất cần cho sự bảo tồn các liên hệ tốt đẹp của con người. Mọi thất bại và bất hạnh trong cuộc sống có thể là hậu quả của sự bất kính và bất tuân những luật lệ của sự cộng tác. Nhưng cộng tác ở đây có nghĩa là gì? Đó có phải là bổn phận bắt buộc của người bạn chúng ta đối với chúng ta không? Thật dễ cho chúng ta để nhận thấy sự vắng mặt của nó nơi những người khác và bấy giờ chúng ta nhận thức được sự quan trọng của nó. Nhưng thật khó để nhận thấy sự thiếu cộng tác ở nơi chính chúng ta. Dầu chúng ta có hiểu cộng tác là gì đi nữa, chúng ta cũng chỉ áp dụng nó vào trong mức độ giới hạn cho chính chúng ta. 

CỘNG TÁC VÀ XÃ HỘI TÍNH  

Bản tính con người mang tính chất xã hội và bản chất con người đến từ sự giao tiếp xã hội. Con người bị cô lập một thời gian sẽ mất tất cả phẩm chất con người. Chẳng hạn, một cô bé Campuchia 8 tuổi đi chăn trâu bị thất lạc trong rừng. Bố mẹ tưởng rằng cô bé đã bị thú dữ ăn thịt. Mọi người trong nhà đều lập bàn thờ để tưởng nhớ cô ta. Và rồi hình bóng của cô ta dần dần cũng bị xóa mờ với thời gian. Ba mươi năm sau, trong lúc mọi người không còn để ý gì đến cô bé ngày xa xưa ấy nữa thì cô ta xuất hiện dưới hình thức nửa người nửa ngợm. Đầu tóc dài phết đất. Cô ta đi đứng như những con khỉ, thân mình trần trụi, từ trong rừng đi ra lấy trộm những thức ăn của người đi làm trong rừng để ăn. Và vì thế, cô ta đã bị phát giác. Người ta đã báo cho cảnh sát và cô đã bị cảnh sát bắt về. Cô hoàn toàn không biết nói. Cách sống đi đứng, ăn uống như một con vật. Cô không muốn giao tiếp với ai. Suốt ngày chỉ ngồi khóc, nhớ cánh rừng ngày xưa và chỉ còn ước muốn trở lại với cuộc sống hoang dã ngày trước. Sau đó mấy ngày thi bố mẹ đến nhìn nhận đó là đứa con gái của mình ngày xưa đã bị thất lạc trong rừng. Cô đã được bố mẹ đưa về nhà nuôi dưỡng nhưng dường như cô đang sống trong một thế giới khác. Điều đó cho thấy bản tính của con người mang đậm tính chất xã hội. Con người không thể sống một mình mà không cần đến người khác. Và sự đáp trả đối với sự tiếp xúc giữa con người có nền tảng trên cảm giác bẩm sinh về xã hội. Đây cũng là kết quả của nhiều trăm ngàn năm chung sống thành cộng đoàn, mà giờ đây chúng ta được thừa hưởng như một di sản và cần phải được phát triển cho một trật tự xã hội của nền văn hóa chúng ta. 

Cảm giác xã hội có nghĩa là sự thích thú về mặt xã hội. Nó là một diễn tả của cảm giác thuộc về một cộng đoàn nào đó trong mỗi người chúng ta. Thiếu cảm giác nầy sẽ làm giảm đi sự cộng tác. Nhưng những đồng bạn thì rất dễ dàng xuất hiện như những người chống đối mà vì sự bảo vệ chính mình nên khiến chúng ta phải chống trả. Chính cảm giác thù hận nầy làm ngăn cản sự cộng tác, trái lại cảm giác xã hôi lại làm gia tăng. 

Cảm giác thuộc về khiến chúng ta tin tưởng nơi người khác, những người mà chúng ta đón nhận như những đồng bạn, và cũng khiến chúng ta tin tưởng vào chính mình như nguồn sức mạnh làm tăng nghị lực khiến chúng ta có thể đối diện với bất cứ sự gì có thể xảy ra. Chính sự sợ hãi cũng là một cản trở lớn đối với sự cộng tác. Con người dễ dàng phát triển cảm giác xã hội và hành động cộng tác bao lâu con người không có sự sợ hãi vì sự sợ hãi sẽ làm mất đi cái khuynh hướng hồn nhiên của họ. Ước muốn cộng tác bị bóp nghẹt bỡi mặc cản tự ti vì mặc cảm nầy luôn sản xuất một sức lực để bảo vệ chính mình. Rất thường, thái độ tự vệ được nghĩ là để đối phó với những nguy hiểm tưởng tượng như khi người ta cảm thấy một đe dọa đối với danh tiếng cá nhân. Cứ bình thường thì mọi người đều thích cộng tác và sẽ cảm thấy đau khổ nếu mình không thể làm được điều đó. 

Vì sự sợ hãi là ngăn trở lớn lao cho sự cộng tác, vậy làm cách nào chúng ta có thể tránh nó được? Thiết lập một cảm giác an toàn là phương cách hữu hiệu nhất. Nhưng an toàn tự nó không đủ. Chính sự chết, sự đau ốm, và các tai họa luôn đe dọa và sẽ còn đe dọa mãi mãi. Chúng ta không thể thiết lập được sự an toàn vì chúng ta không thể khống chế được những đe dọa nầy. Tuy nhiên chúng ta có thể tin tưởng ở nơi chúng ta và nơi những người bạn láng giềng của chúng ta. Chỉ có tự tin mới có thể giúp chúng ta ứng phó với mọi nghịch cảnh xảy ra ngoài sự kiểm soát của chúng ta. Tự tin xuất hiện dưới những sợ hãi lo toan là một điều can đảm. Chính cái can đảm và tự tin đó thiết lập một nền tảng cho cảm giác an toàn, là cái đặt nền tảng trên sự nhận thức rằng bất cứ cái gì cũng có thể vươn lên, cũng có thể hữu ích nếu người ta biết xử dụng nó cho một mục đích tốt đẹp.

HAI THÁI ĐỘ NỀN TẢNG ĐỐI VỚI SỰ CỘNG TÁC 

Chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa hai thái độ hợp tác hay không hợp tác: 

Cảm giác xã hội                                  Thù nghịch

Tin tưởng vào kẻ khác                          Bất tín và nghi ngờ

Tự tin                                                  Mặc cảm tự ti

Can đảm                                              Sợ hãi 

Cảm giác xã hội có nghĩa là tin tưởng nơi người khác, điều đó không thể có được nếu chúng ta thiếu sự tự tin. Bốn đặc tính trên đây là nền tảng cho hành động cộng tác. Trái lại, những đặc tính đối ngược lại là nguyên nhân chính cho sự không cộng tác. Từ những thái độ nền tảng đó, một mẫu hạnh kiểm sẽ có mà chúng ta coi đó như là những nét chính đáng ghi nhớ, chẳng hạn như thù ghét, ganh tỵ, tham lam, khoa trương, khuếch đại là những phản ứng tự vệ được dùng bỡi cá nhân để củng cố sự không muốn tham dự vào sinh hoạt xã hội. Sự hiền hòa, từ tâm, quảng đại, chịu đựng trái lại biểu lộ một khuynh hướng cộng tác. 

Hai quan niệm sai lầm đến từ ý tưởng sai lầm về sự cộng tác của con người. Một là tin rằng sự giận dữ có thể dẫn đến sự thăng tiến, hoặc tin rằng đó là một điều kiện tiên quyết cho những hành động hướng đến sự thăng tiến. Người ta không ý thức về cấu trúc tâm lý của sự giận dữ để nhìn thấy điều nầy là: sự giận dữ chính là một cảm xúc thù hận đựợc hướng dẫn để chống lại một cái gì không hài lòng. Nhưng chúng ta có cần những cảm giác hận thù để cung cấp những tình thế và những điều kiện không vừa ý không? Mọi người đều có khuynh hướng nghĩ như thế. Họ sai biết mấy! Những thay đổi cơ cấu không đòi hỏi sự hận thù. Trái lại, những hành động hận thù thường làm rối loạn hơn là thăng tiến vì chúng là kết quả của tưởng tượng và bất đồng. Chúng ta không phát triển những cảm giác hận thù vì lý do thăng tiến. Sự hận thù xuất hiện chỉ khi chúng ta mất đi sự tin tưởng vào sự thành công của chúng ta. Bao lâu chúng ta tin rằng chúng ta có thể thay đổi, chúng ta sẽ không còn thù ghét tình trạng bất ổn trước đây. Nhưng bao lâu sự nghi ngờ lại nổi lên trong lúc còn giải quyết vấn đề, sự thù ghét cũng lại xuất hiện. Mặc dầu một người vợ có thể không thích những thói quen của ông chồng, nhưng bao lâu còn có hy vọng rằng ông ta có thể thay đổi, bà sẽ không cảm thấy giận dữ. Sự giận dữ của bà cho thấy sự thất vọng trong bà đang lớn mạnh. Vì sự giận dữ đặt nền tảng trên sự sợ hãi và sự thiếu tin tưởng, nó làm mất đi sự giải quyết thõa đáng. Sự thăng tiến không thể được hoàn tất mà không có sự chấp nhận. 

Chấp nhận thì không giống với đồng ý. Nếu chúng ta chỉ chấp nhận khi chúng ta hoàn toàn đồng ý, rất ít cơ hội cho chúng ta chấp nhận. Không ai có đủ tư cách để chúng ta thích, nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta không thể không chấp nhận ai hết. Chấp nhận gồm một cái gì khác hơn đồng ý. Nó diễn tả một thái độ tích cực đối với một ai hoặc một cái gì không kể khuyết điểm hoặc thiếu sót của họ. Khả năng làm việc hiệu quả của chúng ta đòi hỏi một thái độ thân thiện và thông cảm. Chỉ như vậy, bấy giờ chúng ta mới có thể ảnh hưởng người ta đến với sự cộng tác. Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể phát triển những chương trình xây dựng để tháng những trở ngại. Người chồng sẽ vui lòng thích nghi với những ước muốn của người vợ nếu ông cảm thấy hoàn toàn được chấp nhận bỡi nàng, nhưng ông có thể đi vào một hướng đối nghịch nếu ông cảm được sự giận dữ và khước từ của nàng dành cho ông. 

Quan niệm sai lầm thứ hai về những nguyên tắc của sự cộng tác nằm trong niềm tin tổng quát rằng khi những quyền lợi xung đột nhau , sẽ không làm được gì ngoại trừ chống nhau hoặc nhượng bộ. Tuy nhiên, trong bất cứ trường hợp nào đi nữa thì sự cộng tác cũng sẽ bị tiêu diệt và không có gì chiến thắng. Nhượng bộ có nghĩa là bị khuất phục, là nhục nhã, và cuối cùng là nổi loạn và đối nghịch. Chống cự thường kết thúc trong sự đè nén. Ở đây cũng vậy, sự giận dữ xuất hiện trong người bị khuất phục, và sự bất an, sợ sệt lại có trong kẻ chiến thắng. Có những hoàn cảnh xem ra cần tranh chấp, nhưng những hoàn cảnh như thế thường là kết quả của những thù hận trước đây. Giao chiến tự nó không bao giờ kết thúc hận thù. Nó chỉ kết thúc chiến tranh cho một giai đoạn nào đó mà thôi. Ngay cả nó mang lại chiến thắng bằng cách đánh bại đối phương, chúng ta cũng hãy chuẩn bị cho sự bộc phát của những hận thù đang âm ỷ, ngoại trừ chúng ta thiết lập được một quan hệ mới của sự bình đẳng và tin tưởng lẫn nhau. 

Cũng vậy, trong quan hệ giữa bố mẹ và con cái hay vợ với chồng đều đúng như vậy. Rất ít người trong thời đại hôm nay được chuẩn bị để thõa đáp những lợi ích khác nhau trong tinh thần cộng tác. Sự thiếu cảm giác xã hội, thiếu can đảm, và thiếu tin tưởng là nguyên nhân của niềm tin sai lầm nầy là: một sự giải quyết có thể được tìm thấy bằng cách chống đối nhau hoặc nhượng bộ nhau. Thật ra, một thái độ thích hợp thì cần thiết để giải quyết những khác biệt nhau mà không xúc phạm đến phẩm giá và sự tự trọng của những người liên quan. Dầu con người đã chung sống với nhau rất lâu, chúng ta vẫn là những người mù trong nghệ thuật sống chung. Và dầu chỉ xuất hiện ở chân trời của xã hội con người cách đây 5 hoặc 6 ngàn năm, nó vẫn còn là một lý tưởng đáng để chúng ta nhận thấy và học hỏi, đó là tâm lý và tâm thần có thể làm thăng tiến những liên hệ dân chủ bằng cách phân tích và sửa sai những cá nhân và những liên hệ của họ.

 

Lm. Le van Quang

Tác giả:  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!