Cách đây 4.500 năm pharaoh Khufu đã xây kim thự tháp Cheops. Từ lâu các nhà khoa học đã đau đầu về cách người ta nâng được 3 triệu tảng đá, mỗi tảng nặng đến 2,5 tấn, lên đúng vị trí của nó. Sau 8 năm nghiên cứu, kiến trúc sư Jean-Pierre Houdin đưa giả thuyết : ở độ cao 40 mét đầu tiên của kim tự tháp, những người thợ đã dựng một đường dốc ở bên ngoài để kéo đá. Nhưng sau đó, đường dốc lại được chuyển vào trong lòng kim tự tháp, theo hình xoắn ốc để hoàn tất cấu trúc cao 135 mét này.
Chẳng biết giả thuyết đó có đúng không ? Kim tự tháp vẫn còn đầy bí ẩn.
Nhưng kim tự tháp cũng chỉ là công trình của loài người. Công trình loài người còn bí ẩn như thế, làm sao hiểu nổi công trình Thiên Chúa thực hiện nơi Ðức Kitô phục sinh ? Phục sinh trở thành biến cố vượt ngoài sức tưởng tượng của con người. Mầu nhiệm càng dầy đặc khi con người tò mò muốn biết làm cách nào Thiên Chúa có thể phục sinh Con Người từ cõi chết.
Kinh nghiệm đó chính các tông đồ đã từng trải qua. Dù thuộc lòng Kinh thánh từ thuở nhỏ và được Thày tiên báo, các ông vẫn không hiểu ý nghĩa sự kiện “Ðức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” (Ga 20:9) Bà Maria Mácđala cũng không khá hơn. Bà hoảng hồn vì không thấy xác Chúa và chỉ biết thuật lại sự kiện cho các tông đồ (Ga 20:2). Nghe theo lời bà, hai ông Phêrô và Gioan đã bình tĩnh chạy đến mồ để tìm hiểu sâu hơn. Ông Phêrô đã bạo dạn chui hẳn vào trong mồ. Tiếp theo là bước chân ông Gioan với niềm tin bừng sáng trước mặt. Bao nhiêu ác mộng tiêu tan ! Từ nay, các ông xác tín vào Chúa Phục Sinh và đã lấy cả mạng sống trả giá cho niềm tin đó.
Niềm tin Phục Sinh bắt đầu từ “tảng đá đã lăn khỏi mộ,” (Ga 20: 1) mở đường cho Ðức Kitô vinh thắng. Mồ trống là dấu chỉ vương quốc tử thần đã tan hoang. Thần chết đã mất hết mãnh lực. Bởi đó, dù chỉ loan báo cho các tông đồ sự kiện mồ trống, bà Maria cũng xứng đáng là tông đồ của các tông đồ. Từ đó, các ông không những nhớ lại lời nói và việc làm đầy quyền uy của Ðức Giêsu, nhưng cả những đau khổ và cái chết của Người nữa. Chính ở chỗ bế tắc nhất và vô nghĩa nhất của kiếp người, Chúa đã tìm thấy con đường giải thoát cho toàn thể nhân loại.
Người vô tội nhưng đã được Chúa Cha sai đến “mang thân xác giống như thân xác tội lỗi” (Rm 8:3) và mặc lấy mọi chiều kích của thân phận con người. Nhờ vâng phục thánh ý Chúa Cha, Người đã biến cái chết thành của hiến lễ dâng tiến Chúa Cha. Chỉ vì muốn tỏ lòng thần phục và yêu thương Chúa Cha, Người đã chết để sống đời đời với Chúa Cha trong cõi vĩnh phúc. Chính Chúa Cha đã dùng quyền lực Thánh Linh phục sinh Người. Từ đó sự chết đã thay đổi hoàn toàn ý nghĩa. Sự chết trở thành dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa đang hiện diện để cứu độ nhân loại.
Con Chúa trở thành nguồn ơn cứu độ loài người, thành nguyên ủy ban Thánh Linh nguồn sống, Ðấng dẫn đưa con người qua đau khổ và sự chết tới thừa hưởng sự sống vĩnh cửu với Người. Như thế, ánh sáng đem lại sự sống vĩnh hằng cho con người. Ðức tin đã sát nhập con người vào Ðức Kitô hằng sống. Sống trong Ðức Kitô, con người sẽ không bao giờ sợ bị án phạt đời đời. Cái chết làm cho con người nên giống Người và nên một với Người. Cái chết mở đường vào cõi sống vĩnh hằng. Chết trở thành phương tiện cứu độ.
Trên đường theo Ðức Kitô, con người đón nhận được sức mạnh của Chúa qua sự sống, cái chết và Phục sinh của Người. Con người tin chắc sẽ được biến đổi trong thân xác vinh quang của Người. Chết không phải là một sự đầu hàng hay thất bại, hủy diệt hay vĩnh viễn xa lìa Chúa Cha. Cái chết vén màn cho chúng ta thấy dung nhan Chúa Cha là Thiên Chúa tình yêu. Tình yêu bất tử. Sự chết như một chân trời chỉ giới hạn tầm nhìn con người. Xuyên qua cái chết, niềm tin cho ta thấy tất cả sự thật Chúa Cha mạc khải trong Ðức Kitô Phục sinh.
Phục sinh gởi một sứ điệp vừa cổ điển vừa hiện đại : Ðức Kitô không còn nằm trong quyền lực tử thần. Ngày nay, Kitô hữu được kêu gọi sống, công bố và chào mừng chiến thắng này. Bằng cách nào ? Họ phải chống lại mọi hình thức văn hóa sự chết và khủng bố đầy dẫy trong thế giới hôm nay. Ðể phục sinh, Chúa Kitô đã phải vác thập giá lên đồi Canvê. Chẳng lẽ muốn phục sinh nhân loại và dân tộc, người Kitô hữu lại ngồi lì trong nhà để thụ hưởng những bổng lộc và lễ nghi ? Không ! Chúa Kitô mời gọi họ vác thập giá theo Người. Không có con đường giải thoát nào khác ngoài thập giá Chúa Kitô.
Nếu Chúa cũng hoàn toàn im lặng trước những cơ chế bất công và quyền lực tối tăm, chắc chắn Chúa đã không làm chứng. Khi nào Chúa im lặng và khi nào Chúa cất tiếng nói ? Trong suốt cuộc khổ hình, Chúa Giêsu giữ thinh lặng một lần trước Thượng Hội Ðồng khi họ tố cáo và xuyên tạc những lời giảng của Người (Mc 14:61). Philatô rất ngạc nhiên khi thấy Chúa làm thinh trước cảnh các thượng tế và kỳ mục chống đối đòi lấy mạng Người (Mt 27:14; Mc 15:5). Nhưng Chúa không bao giờ thinh lặng khi cần phải xác định về bản tính và sứ mạng của mình. Chúa đã bị cơ chế bất công đẩy vào cõi chết để bịt miệng Người.
Ngày nay, khi thấy cảnh cha Nguyễn văn Lý bị bàn tay hộ pháp bịt miệng trước tòa án, nhiều người muốn xác định danh tánh người công an đó. Ðể làm gì vậy ? Ðiều đó có cần thiết không ? Sao không nhớ Chúa đã trả lời cho Philatô khi ông xưng hùng xưng bá để đe dọa Người : “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.” (Ga 19:11) Can đảm chưa ?! Rõ ràng chưa ? Nếu không có cả một chế độ bao che, chắc chắn bàn tay hộ pháp đó cũng chẳng làm gì được !
Thú thật, không còn gì ý nghĩa và giá trị hơn khi thấy cảnh cha Nguyễn văn Lý bị bịt miệng và mang còng số 8 trước tòa án. Hình ảnh ấy đập vào mắt mọi người ngay trước Tuần Thánh 2007. Chưa bao giờ Tuần Thánh đầy ý nghĩa như vậy ! Phải cám ơn Nhà Nước Việt nam mới phải, vì họ đã đưa lên màn hình thế giới một cảnh tuyệt vời về thực trạng nhân quyền tại Việt nam và về một hiện thân Ðức Kitô giữa thời đại !
Hình ảnh ấy có giá trị hơn cả triệu bài viết về nhân quyền. Không cần nói nhiều nữa. Tất cả đã rõ ! Có thể chú thích dưới bức hình nổi tiếng đó như sau : “Không có gì quý hơn độc lập và tự do” hay “Việt nam bước vào sân chơi thế giới sau WTO.” Xưa nay, nhiều người cứ tưởng những người đấu tranh cho dân chủ quay lưng lại với dân tộc. Còn những người đấu tranh ở hải ngoại bị xếp vào nhóm cử tri lỗi thời. Những người chống Cộng không sao thuyết phục được giới trẻ hiểu về lý tưởng của mình. Hình ảnh đó đã đủ cho giới trẻ hải ngoại thấy rõ sự thật. Cám ơn Nhà Nước Việt nam đã tung ra một màn ngoạn mục giúp cho cả đạo lẫn đời hiểu rõ vấn đề ! Hình ảnh đó có sức phục sinh cả một dân tộc đang chết nhát trước bạo lực.
Niềm tin Phục Sinh làm sống lại một ký ức kinh hoàng về một thời đại hình như sự chết mạnh hơn sự sống. Theo chân Chúa, cha ông tử đạo chúng ta đã anh dũng đánh đổi mạng sống để dành lấy quyền tự do tôn giáo ! Các Thánh Tử Ðạo Việt nam đã từng là nạn nhân của những cơ chế bất công. Từ dưới những nấm mồ, các ngài vẫn còn lớn tiếng kêu gọi mọi người chú ý tới quyền tự do tôn giáo là quyền căn bản của con người.
Hơn ai hết, các vị lãnh đạo Giáo Hội đánh giá cao những hy sinh đó. Chẳng lẽ các vị tử đạo để được tôn kính trên những tòa cao chót vót với những nghi lễ rùm beng ? Hẳn các vị lãnh đạo còn nhớ lời thách thức của Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền : có giám mục nào dám chết vì quyền làm người không ? Có Giám mục nào đã từng nhận được giải thưởng Rafto như Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ chưa ? Nhưng chắc chắn GHVN có hai giám mục được Chủ tịch Nhà nước Nguyễn Minh Triết ban Huân Chương Đại Đoàn Kết Dân Tộc vào ngày 18-11-2006. Mỉa mai thay !
Thật vô cùng xấu hổ khi nhìn sang nước Zimbabwe, Phi châu. Giữa cảnh đàn áp bất công, Tổng Giám Mục Pius Ncube tố cáo : “Áp bức là tội lỗi và là điều không thể tương nhượng. Nó phải bị khuất phục.”(Liên Hội Đồng Giám Mục Phi Châu và Madagascar, viết tắt là SECAM) Người đã dẫn đầu đoàn biểu tình chống lại chính quyền Mugabe . Có ai đặt vấn đề Giáo hội có được phép làm chính trị hay không đâu. Trái lại, Đức Tổng Giám Mục Ncube bày tỏ vui mừng vì sự ủng hộ của các Đức Giám Mục tại các nước Phi Châu dành cho chính nghĩa tự do dân chủ của người Zimbabwe là “chưa từng có.”
Làm sao có tự do dân chủ, nếu không mạnh dạn lên tiếng và dấn thân như Ðức Kitô ? Chúa nhật vừa qua, Đức Giáo Hoàng Bênêđict XVI mời gọi những người trẻ hãy can đảm chống lại bạo lực, dối trá và thối nát,[1] Lời mời gọi này cũng dành cho tất cả những ai đang tha thiết với công cuộc tranh đấu cho tự do và quyền làm người. Những gì đụng tới con người là đụng tới Chúa Kitô. Không thể nhân danh lề luật để giết chết con người. “Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sabát.” (Mc 2:27)
[1] Zenit.org : 1 tháng 4, năm 2007.