(Ga 21:1-19)
Một buổi sáng đẹp trời, giữa cảnh mây nước trên biển hồ Tibêria, từ trên bờ, Ðức Giêsu quan sát rất kỹ các môn đệ đang mệt mỏi chèo thuyền về phía mình. Họ vào gần đến nỗi có thể trao đổi với Thày và nghe lệnh Thày thả lưới xuống bên phải mạn thuyền để bắt cá. Khoảng cách càng thu ngắn, các môn đệ càng nhận rõ Thày. Tới lúc lên bờ, khoảng cách không còn nữa. Thày trò có thể quây quần quanh bếp hồng. Chúa thích ăn cá mới bắt và tự tay nướng cho các môn đệ. Ấm cúng và thân mật làm sao ! Chắc chắn Chúa Giêsu và các môn đệ có thể kể hết cho nhau niềm vui Phục Sinh. Khoảng cách càng thu ngắn, con người càng gần gũi nhau.
Bình thường, cuộc sống cần phải có những khoảng cách giữa người lãnh đạo và quần chúng, giữa nhà giáo dục và học sinh, giữa cha mẹ và con cái. Khoảng cách quá xa hoặc quá gần cũng đều gây phương hại cho công cuộc chung.
Giữa thày trò Ðức Giêsu có một khoảng cách nào không ? Nếu có, Chúa cũng phá vỡ khoảng cách đó. Tại sao ? Liệu Chúa có thành công khi không tôn trọng khoảng cách tự nhiên không ? Phá vỡ khoảng cách có gây nguy hiểm cho cộng đồng không ? Nếu không còn khoảng cách quyền bính trong cả hai lãnh vực cai trị và giáo dục, con người có thể đạt mục đích không ?
Trong Tin Mừng hôm nay, việc phi thường nhất không phải là mẻ cá lạ lùng, nhưng là việc Chúa phá vỡ và phối hiệp một cách tài tình khoảng cách giữa các thực tại. Việc phá vỡ đó rất cần thiết để Chúa trình bày một bài học rất ý nghĩa cho mọi người.
Những cảnh trái ngược đã thu ngắn hay phá vỡ khoảng cách bình thường. Thứ nhất, theo Tin Mừng Gioan, ngay sau khi phục sinh, Ðức Giêsu đã về trời. Vậy mà, Ðức Giêsu vẫn xuất hiện để ăn uống với các môn đệ ở bờ hồ Tibêria. Như thế, không còn khoảng cách giữa thiên giới và trần giới nữa. Thứ hai, ngay trong cảnh trao quyền cho ông Phêrô, Chúa Giêsu đã kết hiệp quyền bính và tình yêu. Ðúng hơn, quyền bính được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Bình thường quyền bính và tình yêu trái ngược hay xung khắc nhau, như hai lãnh vực công và tư vậy. Thứ ba, Hội Thánh lại được đặt dưới quyền lãnh đạo của một tội nhân đã từng phản bội Chúa. Tại sao tội nhân lại được tuyển dụng để làm một việc thánh trong một Hội thánh như thế ?!
Chúng ta cố gắng cầu xin Chúa soi sáng để có thể rút tỉa những điều cần thiết từ ba bài học đó. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu xuất hiện với các môn đệ và chia sẻ tận tình với cuộc sống của họ. Không những Người can thiệp vào kế sinh nhai, nhưng còn có thể chia sẻ tận tình với những hoa quả của cuộc sống với họ. Người mạc khải cho chúng ta thấy có một sợi chỉ xuyên suốt từ cuộc sống trần giới sang thiên giới. Tuy có khác biệt, nhưng vẫn có điểm chung, đến nỗi Ðức Giêsu có thể ăn uống với các môn đệ. Bữa ăn thân tình giữa thày trò đã để lại trong lòng môn đệ một niềm tin sâu xa về sự hiện diện thân mật và cần thiết của Ðức Giêsu trong cuộc sống. Ðiểm nối giữa hai cuộc sống thiên giới và trần giới, đó chính là Thánh Thể. Bởi đấy, kết thúc trình thuật về mẻ cá lạ lùng là hành vi giống hệt như Chúa đã làm trong bữa Tiệc Ly.
Bài học thứ hai rút từ việc Chúa trao quyền cho ông Phêrô. Chưa thấy ai trước khi trao quyền cho người khác lại đặt những câu hỏi như Chúa. Cách đặt vấn đề cho thấy tình yêu rất quan trọng, vì là nền tảng và động lực của quyền bính. Thực vậy, quyền bính trong Giáo hội chỉ là phương tiện để phục vụ : “Kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.” (Lc 22:26) Hơn nữa, Chúa còn nói : “Ai phục vụ Thày, hãy theo Thày.” (Ga 12: 26) Hơn ai hết, những người lãnh đạo trong Giáo hội phải theo sát gót Thày Chí Thánh. Nhưng làm sao phục vụ, nếu không khiêm tốn ? Khiêm tốn chỉ phát xuất từ tình yêu đích thực.
Bài học thứ ba mới thật đắt giá. Một người phản bội như ông Phêrô lại được Chúa ủy thác một trọng trách quá lớn. Ông có tài cán gì ? Ông đã chối Chúa ba lần. Một vết đen quá lớn trong cuộc đời ! Làm sao tẩy xóa được ? Ông cũng không can đảm đến gần cây thánh giá như ông Gioan. Phải chăng Chúa quá liều lĩnh khi chọn ông làm giáo hoàng đầu tiên của Giáo hội ? Thực ra, trước khi trao trọng trách cho ông, Chúa đã đặt vấn đề tình yêu với ông ba lần. Ba lần chứng tỏ tình yêu đối với Thày bù lại ba lần chối Chúa. Ðó là một xác quyết sau khi cân đo cẩn thận, chứ không nông nổi như trước khi Chúa chịu chết. Còn hơn một xác quyết, tình yêu như ngọn lửa bùng lên trong đêm trường. Phản bội tựa như rơm rác, làm sao có thể tồn tại trong ngọn lửa hồng ngùn ngụt đó ? Theo một số nhà chú giải, thánh Gioan đã xử dụng những ngôn từ Hy lạp khác nhau để chỉ về tình yêu (trong hai câu hỏi đầu của Chúa, ông dùng agapan; câu hỏi cuối cùng và trong tất cả các câu trả lời của ông Phêrô, ông dùng từ philein). Ông muốn cho thấy một chuyển biến từ tình cảm sang tình bạn sâu đậm hơn. Việc ông dùng hai lần trong câu hỏi và câu trả lời cuối cùng nhắc lại việc Chúa coi các môn đệ là “bạn hữu” khi họ thi hành điều Thày truyền.
Nếu Giáo hội phát xuất và đặt nền tảng trên tình yêu, làm sao ông Phêrô và các đấng kế vị có thể khác được ? Tình yêu trước hết đòi phải gần gũi, lắng nghe, và quan tâm chăm sóc. Nếu quá nhấn mạnh tới quyền lực, người ta dễ bỏ quên yếu tính của nó là tình yêu. Quyền lực hay quyền bính dễ làm cho con người xa nhau. Trái lại, tình yêu đưa con người lại gần. Khi đánh mất bản chất tình yêu, quyền bính không còn khả năng phục vụ con người nữa.
Làm sao ông Phêrô có thể xác quyết về tình yêu của ông đối với Chúa tới ba lần, nếu ông không tin vào Chúa ? Bởi vậy lời xác quyết về tình yêu cũng là lời tuyên xưng đức tin. Chính trong đức tin này, Thiên Chúa sẽ hành động. Như thế đủ thấy Giáo hội là một công trình của Thiên Chúa, chứ không phải của loài người. Nếu đó là công trình của Thiên Chúa, các môn đệ có thể nào hành động như không có Chúa không ? Có thể nào nhát sợ trước sức mạnh bạo quyền ? Có thể nào không nhạy cảm trước cảnh con người bị đàn áp không ? Chẳng lẽ Giáo hội trở thành một cơ chế cứng ngắc không phản ứng kịp trước những biến cố ? Cả thế giới xôn xao trước hình ảnh cha Nguyễn văn Lý bị bịt miệng công khai trước tòa án. Nhưng các giới có thẩm quyền trong đạo lại cho đó là việc thuộc một địa phương và việc tranh đấu cho nhân quyền là việc của cá nhân chứ không liên quan tới Giáo hội Việt nam. Nhà Nước nhắc nhở cho mọi người biết giáo luật không cho phép linh mục làm chính trị. Ðó là chính sách “gậy ông đập lưng ông.” Kiểu đó cũ rích rồi nhưng vẫn hiệu lực. Họ đã bịt miệng các giám mục và GHVN một cách tinh vi. Họ làm ra như những nhà mô phạm và đạo đức có bổn phận nhắc nhở các con chiên của Chúa ! Nếu không có những lời nhắc nhở đó, chắc con chiên sa hỏa ngục hết ! Cuối cùng chỉ những người đàn áp nhân quyền mới được lên thiên đàng mà thôi !
Nhưng thử hỏi tiếng nói của ai đáng cho chúng ta nghe theo ? Trả lời cho những kẻ muốn lên mặt dạy đời, ÐGH Gioan Phaolô II thẳng thắn tuyên bố : “Đừng hiểu chính trị theo nghĩa hẹp! Giáo Hội có bổn phận phải rao giảng Tin Mừng, mà trong Tin Mừng có con người, tức là có nhân quyền, nhân phẩm, tự do và lương tâm cùng tất cả những gì thuộc về con người. Nếu tất cả những cái đó có một giá trị chính trị thì tôi làm chính trị, vì tôi bênh vực con người.” Ngay khi vừa lên ngôi giáo hoàng năm 1978, ÐGH Gioan Phaolô II đã tuyên bố thẳng thắn và dứt khoát sẽ về Ba Lan chiến đấu nếu Liên Sô và khối quân sự cộng sản Varsovie (Varsaw) xâm lăng Ba Lan để đàn áp các cuộc tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Mới đây, ÐGH Bênêđictô cũng yêu cầu tổng thống xứ Sri Lanka tôn trọng nhân quyền và nối lại cuộc đối thoại để chấm dứt bạo động trong quốc gia này.[i] Lời khuyên đó cũng đủ soi sáng cho những ai đang có trách nhiệm hướng dẫn đoàn chiên Chúa ở Việt nam.
Nhưng trên hết là tiếng nói của vị Giáo Hoàng tiên khởi. Ðứng trước quyền lực Do thái đã từng đổ máu Thày mình và bây giờ muốn bịt miệng các Tông Ðồ, ông Phêrô khẳng khái tuyên bố : “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.” (Cv 5:29) Phêrô sau khi Chúa Phục sinh không còn là Phêrô lúc Chúa chịu chết nữa. Thánh Linh đã giết chết con người nhát sợ nơi ông. Ba lần đáp trả tình yêu có giá trị gấp bao nhiều lần chối Chúa ? Chúa đã không sai lầm khi chọn ông. Ông đã đánh đổi cả mạng sống để chứng tỏ tất cả tình yêu đối với Thày và Giáo hội. Ông xứng đáng với niềm tin tưởng của Chúa !
Các vị hữu trách vẫn kêu gọi phải tỏ ra bác ái và xây dựng ngay cả khi nhận định và phê bình. Nhưng thử hỏi khi giữ im lặng trước biến cố Cha Nguyễn Văn Lý, quý vị có tạo nên sự căng thẳng và ngộ nhận trong dân Chúa không ? Ðó có phải là bác ái không ? Chắc chắn cũng giống như vụ “Nghi Thức Thánh Lễ 2005” và việc Ðức Mẹ Sầu Bi bị đập nát, vụ Cha Nguyễn Văn Lý cũng sẽ “chìm xuồng” luôn mà thôi. Vị này đổ cho vị kia. Không ai thấy có trách nhiệm cả ! Ðừng ai trông chờ gì !
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống khiêm tốn và can đảm ! Xin giúp chúng con biết thâu ngắn hay phá vỡ những khoảng cách làm chúng con không thể gần nhau. Chỉ khi nào gần nhau, chúng con mới có thể phục vụ Chúa và nhân loại một cách hữu hiệu. Xin cho chúng con biết từ bỏ mọi sự, nhất là cái tôi hèn nhát của chúng con mà theo Chúa. Amen.
Lm đỗ lực, op. 22.04.2007
[i] ZENIT.org, 20.04. 2007