Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Suy Niệm & Cầu Nguyện
THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ

 

SUY NIỆM PHÚC ÂM ( IV A 32 ); ( 05.06.2011), ( Mt 28, 16-20)

CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THĂNG THIÊN, NĂM A

 

NGUYỄN HỌC TẬP 

Lễ Thăng Thiên khởi đầu một thế hệ mới cho Giáo Hội, tức là thế hệ trong đó Chúa Giêsu không còn chỉ là một ký ức lu mờ nào đó trong quá khứ, mà là một thế hệ trong đó Chúa Giêsu hiện diện sống động và mầu nhiệm giữa các môn đệ.

Người hiện diện không còn phải dưới hình thức với thân xác nhận thấy được, mà là hiện diện bằng nhân chứng và bằng sứ mạng của các vị môn đệ cho đến tận cùng mặt đất.

Đó là những gì đoạn cuối cùng của Phúc Âm Thánh Matthêu trong Thánh Lễ hôm nay xác nhận mãnh liệt. Nhưng đoạn cuối cùng chúng ta vừa đề cập, không phải chỉ là phần kết thúc Phúc Âm của ngài, cho bằng là phần tổng kết thần học của tác phẩm và phát hoạ đồng thời cũng là chương trình hành động của cộng đồng Ki Tô giáo trong khoản thời gian giữa Phục Sinh và Cuộc Trở Lại trong vinh quang ( parusía ) của Chúa Ki Tô. 

1 - Được Lời Chúa kêu gọi.

Khởi đầu sứ mạng công cộng của Chúa Giêsu, các môn đệ được Người mời gọi hãy theo Người trong miền đất Galilea; giờ đây các vị phải trở lại đó, như những gì được lời thiên sứ và Chúa Phục Sinh kêu gọi:

   - " Các bà đến xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với các môn đệ như sau: " Ngưởi đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Galilea trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người, tôi xin nói cho các bà hay " ( Mt 28, 7). 

Đi Galilea không phải là kết quả của một cuộc tìm kiếm tôn giáo tự lập của các môn đệ, mà là quy tựu về đó một lần nữa do sáng kiến của Chúa Giêsu, trong thành tín của tình yêu thương, thực hiện lời Người đã hứa, mặc cho các vị đã trở mặt và phản bội Người trong thời gian khổ nạn và tử nạn.

Thật vậy, các môn đệ được kêu gọi hãy trở về Galilea, vì được lời của Chúa Giêsu triệu tập, như thánh Matthêu đã phát biểu rõ trong văn bản:

   - " Bấy giờ Chúa Giêsu nói với các bà: " Chị em đừng sợ ! Về báo cho anh em của Thầy, để họ đến Galilea. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó " ( Mt 28, 10),

xác nhận lại một lần nữa lời Chúa Giêsu đã nói trước cuộc khổ nạn:

   - " Bấy giờ Chúa Giêsu nói với các ông: " Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: " Ta sẽ đánh mục tử, và đàn chiên sẽ tan tác ". Nhưng sau khi trỗi dậy, thầy sẽ đến Galilea trước anh em " ( Mt 26, 31-32).  

Điều vừa kể cho chúng ta thấy đây là một sự chắc chắn hoàn toàn: Giáo Hội không phải là một tập thể tự động quy tựu của những người có cảm tình với Chúa Giêsu, mà là một cộng đồng hợp nhứt của những ai được Lời Ân Sủng Chúa kêu gọi, vượt cả lên trên tội lỗi và trở mặt của mình.

Bởi đó, Thánh Matthêu nói đến Nhóm Mười Một, con số cho thấy việc bỏ đội ngủ của một người trong Nhóm Mười Hai và cũng để nhắc lại vết thương của tội lỗi và yếu hèn của Nhóm.

Mặc dầu vậy, trong Phúc Âm Thánh Matthêu, con số Mười Một có giá trị tin vui  của Nhóm, không có nghĩa là Chúa đành khước từ triệu tập cả dân chúng, mười hai hệ tộc Israel, nhưng với ý nghĩa là cộng đồng của Chúa Phục Sinh không phải là nhóm đặc ân ( élite ) hoàn hảo được tuyển chọn, mà là nhóm người còn có nhiểu ngờ vực, mỏng dòn và bất định.

Mặc dầu với trạng thái bất xứng đó, các môn đệ có thể tin tưởng vào sự hiện diện không thể nào thiếu được của Chúa giữa Nhóm mình.

Điều đó cho thấy cộng đồng Ki Tô giáo cần luôn luôn nhớ rằng cộng đồng mình là một cộng đồng tổ hợp, trong đó bên cạnh đức tin và bác ái, cũng có thể đồng hiện diện cả những kẻ cứng tin, tôi lỗi và bất nhất. 

Về nơi chốn của cuộc gặp gỡ, Phúc Âm chỉ nói một cách tổng quát ở trên một ngọn núi:

   - " Mười một môn đệ đi đến miền Galilea, đến ngọn núi chúa Giêsu đã truyền cho các ông đến " ( Mt 28, 16).

Nhưng danh từ " ngọn núi " có liên tưởng đến ý nghĩa Thánh Kinh, bởi vì " ngọn núi " trong Thánh Kinh làm cho chúng ta liên tưởng đến núi Sinai, qua cuộc hội ngô với Thiên Chúa, đã xác dịnh vĩnh viễn căn tính của dân Do Thái, như là dân của Giao Ước và là chủ thể mà Lề Luật Chúa muốn đề cập đến. 

Cũng trong Phúc Âm Thánh Matthêu, chủ đề về " ngọn núi " được đề cập đến với ý nghĩa thần học, bởi vì có liênhệ đến các giai đoạn quyết định cuộc đời Chúa Giêsu và được dùng để nhấn mạnh đến mầu nhiệm của mối liện hệ với Thiên Chúa, cũng như đến đặc tính của Nước Trời mà Chúa Giêsu đang rao giảng.

" Ngọn núi " nói cho chúng ta biết sự hiện diện của Chúa đang mạc khải mình cho con người, đang thông báo ý chí cứu rổi của Người, nhiều khi liên hệ và đảo lộn cả dự tinh và ước vọng của con người. 

Ở đây cũng vậy, " ngọn núi " ở Galilea được nói lên như là để báo trước cho chúng ta một cuộc mạc khải mầu nhiệm của Chúa sắp đến, nói đến vương quyền của Thiên Chúa trong lịch sử được thể hiện nơi Chúa chịu đóng đinh đã phục sinh và sứ mạng của cộng đồng các môn đệ. 

   2 - Khoảng cách và sự gần gủi.

   - " Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Chúa Giêsu đến gần, nói với các ông: " Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất " ( Mt 28, 17- 18).

Cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh làm nổi bậc lên những mối mâu thuẩn trong tâm hồn con người. Thánh Matthêu cho thấy sự trái ngược giữa thái độ thờ lạy Người và sụ nghi ngờ của một vài người khác.

Đều vừa kể cho thấy Chúa Phục Sinh mạc khải mình cho một nhóm tín hữu, mà trong đức tin của họ vẫn còn đang tồn trử một vài bóng tối nghi nan. Điều vừa kể càng trở nên hiển nhiên hơn nữa, nếu chúng ta nghĩ rằng sự " hoài nghi " đó của một vài môn đệ cũng có nghĩa là " còn giữ khoản cách " của đức tin mình, như là các vị đó sợ kẻo phải lại liên hệ một lần nữa, bị lôi cuống vào một cuộc mạo hiểm khác vượt qúa khả năng mình.

Điều đó cũng có ý nghĩ là Giáo Hội của Chúa Giêsu gồm có

   - những tín hũu " bái lạy Người ",

   - nhưng trong Giáo Hội đôi khi cũng không thiếu những tín hữu khác " lại hoài nghi ", là điều chỉ có thể xoá đi được, khoảng cách có thể giảm thiểu đi được bằng cách thông hiệp sâu đậm hơn với Người.   

Hiểu được tâm trạng đó, chính Chúa Giêsu vượt thắng khoảng cách chia tách các vị và Người:

   - " Chúa Giêsu đến gần...".

Chính ơn sủng của Người phá đổ đi các bức tường chia cách đó.

Khác với các đoạn tường thuật của Thánh Marco và Luca, Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Matthêu, ở đoạn hôm nay, không xoá tan đi các mối nghi ngờ và sợ sệt của Nhóm Mười Một. Người vẫn để cho tồn tại ở một mức độ nào đó, để tồn giữ đặc tính mầu nhiệm của thực thể mới, thực thể Phục Sinh.  

Đàng khác Chúa Giêsu đến gần các vị, nói với các vị lời hứa của Người và giao cho các vị phận vụ trong tương lai.

Cử chỉ đến gần và nói với các môn đệ để trấn an các vị khi cần, giúp cho các vị hiểu được những gì phát xuất từ trái tim Người, chúng ta cũng đã gặp được trong Phúc Âm Thánh Matthêu.

Trong các lời giảng dạy về Tám Mối Phước Thật, Người huấn dạy các vị, sau khi các vị đến bên cạnh Người:

   - Thấy đám đông, Chúa Giêsu lên núi, Người ngồi xuống, các mô đệ đến gần bên. Người mỏ miệng dạy các ông..." ( Mt 5, 1).

Cũng vậy, Người muốn thu ngắn khoản cách giữa các vị và Người, khi Người muốn mạc khải đời sống thân tình giữa Chúa Con và Chúa Cha:

   - " Tất cả những ai vất vả và mang gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi, bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học hỏi với Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường " ( Mt 11, 28-29).

Trong thái độ trở lại gần gũi của Chúa với Nhóm Mười Một, Phúc Atm Thánh Matthêu cho thấy một thực trạng thần học, đó là chỉ có Người, mới là Đấng có thể nối lại các mối liên hệ đã bị đứt khúc đi trước đó, bằng cách tự sáng kiến của Người.

Nói cách khác, Người đã bảo bọc và che chở lại các vị bằng sự tha thứ của Người, qua hình ảnh " Chúa Giêsu đến gần, và nói với các ông...". 

   3 - Quyền năng của Chúa Phục Sinh. 

   - " Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất " ( Mt 28, 18). 

Lời nói vừa kể cho biết căn tính thần học của Chúa Phục Sinh, như là Con Người, đã được Thiên Chúa trao cho mọi quyền trên trời, dưới đất.

Ngôn từ vừa kể nhắc lại cuộc diện kiến của tiên tri Daniel về vương tước tổng thể và vĩnh viễn được trao cho Con Người.

Như vậy Chúa Giêsu tuyên xưng mình là Đấng thể hiện, diện kiến khải huyền của tiên tri Daniel, cho thấy từ nay trở đi òng  lịch sử không phải chỉ là nơi hoành hành của thế lực của sự dữ, chống lại Thiên Chúa, mà còn và nhứt là nơi Thiên Chúa thực hiện đồ án cuộc sống tốt đẹp và đích thực cho con người.

Nói cách khác, Chúa Phục Sinh tiếp tục thực hiện đồ án sáng tạo của Thiên Chúa nơi con người.

Nơi Người, một thế hệ nhân loại mới được khởi đầu thức hiện, không phải là nhân loại hống hách và tham lam quyền thế, như những gì tổ phụ Adong đã vấp phạm, mà là nhân loại đón nhận vương vị của mình từ Thiên Chúa.

Bởi đó quyền năng của dòng giống nhân loại mới của Chúa Phục Sinh là quyền năng được hành xử làm cho con người có được một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá con người của mình hơn,

   - được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa ( Gen 1, 26-27) 

   - và là con Thiên Chúa ( Mt 6, 9),

   - ( chớ không phải là quyền bính độc tài của Satan, chỉ biết có chửi bới, đánh đập, cướp giựt, " trấn nước ", " bịt miệng ") như là cách sống của súc vật ( cfr. Dn 7).

Bởi đó những lời của Chúa Phục Sinh nói với Nhóm Mười Một, là Người đã nhận được mọi quyền " exusía " Hy Lạp, tức là mọi quyền từ Thiên Chúa, có nghĩa là Người nói với các môn đệ quyền thực hiện một Vương Quốc của Chúa Con, tức là một nhân loai mới, đúng theo đồ án cứu độ của Thiên Chúa.

Và hiểu như vậy, chúng ta hiểu được quyền năng thực hiện đồ án kiến tạo một nhân loại mới đó, là đồ án phổ quát cho mọi người, vượt ra khỏi lằn ranh biên giới của Israel.

Và như vậy, trong nhãn quang vương quyền vừa kể của Chúa Phục Sinh mà chúng ta phải hiểu được trương độ và phẩm chất của sứ mạng mà Chúa Phục Sinh  ủy thác cho các môn đệ, ra khắp thế giới, qua mọi thời đại, cho đến ngày Người trở lại trong vinh quang " parusía ".  

   4 - Sứ mạng của các môn đệ.  

Nếu uy quyền của Chúa Phục Sinh chưa được thể hiện ra đầy đủ, đó là ngày sau cùng còn bị giữ lại, bởi lẽ trước đó việc loan báo Phúc Âm còn phải được thực hiện: 

   - " Vậy, anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em " ( Mt 28, 19 - 20a ). 

Chúng ta có thể hiểu được mệnh lệnh ngắn ngủi vừa kể một cách rõ ràng hơn, qua những gì Chúa Giêsu đã đề cập đến trong viễn ảnh thời cánh chung:

   - " Tin Mừng nầy về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết.Và bấy giờ sẽ là ngày cánh chung " ( Mt 24, 14).

Như vậy, thời điểm hiện tại là thời điểm của Giáo Hội và của sứ mạng Giáo Hội, có trương độ là " trên khắp thế   giới ", và hoàn cảnh trong đó Giáo Hội đang thực hiện sứ mạng của mình là hoàn cảnh dụ ngôn về cỏ lùng: 

   - " Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùn là con cái Ác Thần " ( Mt 13, 38). 

Mở rộng trương độ sứ mạng đến các dân ngoại không có nghĩa là đóng kín đối với Israel, nhưng dĩ nhiên phương thức để thực hiện sứ mạng phải khác hơn. 

Trong câu ủy thác sứ mạng cho các môn đệ, Chúa Phục Sinh cũng cho biết mục đích của sứ mạng, đó là  

   - " làm cho muôn dân trở thành môn đệ "  

" Làm cho muôn dân trở thành môn đệ " không có nghĩa là các môn đệ được sai đi, các nhà truyền giáo, mọi tín hữu Chúa Ki Tô phải đi ra khắp đó đây trên thế giới để thuyết phục người khác về  ý nghĩa tốt đẹp của một vài tư tưởng, mà đúng hơn là nói cho mọi người biết cuộc hành trình đời sống môn đệ mà Chúa Giêsu đã cho các vị biết trước đó.

Cuộc sống môn đệ, trước tiên, là một cuộc sống kinh nghiệm, kết hợp thân tình với Chúa Con là Đấng mạc khải Chúa Cha.

Như vậy " làm cho trở thành môn đệ " là làm cho con người đến gần trái tim " hiền lành và khiêm nhường " của Chúa Giêsu, nơi mà những ai " khổ nhọc và bị áp bức " gặp được " nơi nghỉ ngơi và an bình "

Nói cách khác, sứ mạng của các môn đệ và của chúng ta, các tín hữu Chúa Ki Tô, có mục đích là đưa con người đến thông hiệp thân tình với Chúa Giêsu. 

Và đây là hai phương để thực hiện sứ mạng đó: Phép Rửa và giáo lý tông truyền.

   - " làm phép rửa ccho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em " 

   a) " làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần ".

Có người cho rằng " công thức " Chúa Ba Ngôi cử hành Phép Rửa như vừa kể là do Giáo Hội " sáng tạo " ra sau nầy.

Thật là câu quả quyết không có lý chứng !

Bởi lẽ đó là công thức Phép Rửa có từ thời rất xa xưa, từ thời các Thánh Tông Đồ, được Chúa Giêsu dạy cho.

Chứng cứ đó, chúng ta có thể tìm thấy ngay trongTân Ước:

   - " Cầu chúc anh chị em tràn đầy ân sủng của Chúa Giêsu Ki Tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần " ( 2 Cor 13, 13).

   - " Nhưng khi tới thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lè Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên " Abba, Cha ơi !". Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con, thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa " ( Gal 4, 4-7).

Dạy các môn đệ làm phép rửa cho dân chúng nhân danh Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu không chỉ có ý ám chỉ nghị thức Phép Rửa, một cách nào đó cũng đã được thực hiện trong Do Thái giáo thời đó. 

Nhưng ngoài nghị thức Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi như vừa kể, Chúa Giêsu còn muốn cho biết ý nghĩa sâu đậm của Phép Rửa. Ý nghĩa đó là " nhận chìm " những ai tuân theo lời loan báo Tin Mừng của các môn đệ vào trong chính thực thể Chúa Ba Ngôi, dẫn nhập họ vào dưới uy quyền của danh Chúa Ba Ngôi, và thông hiệp với đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa của Người.

Đàng khác  ghi lại những lời dạy bảo của Chúa Giêsu về Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, Thánh Matthêu cũng nghĩ đến phương thức cử hành Phép Rửa trong các cộng đồng Ki tô hữu tiên khởi của ngài, còn được sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại:

   - " Ông Phêrô đáp: " anh em hãy sám hối và mỗi người hãy chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu Ki Tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần " ( Act 2, 38).

   - " Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ, họ mới chỉ chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu " ( Act 8, 16)

   - " Những người nầy đã nhận được Thánh Thần như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm Phép Rửa cho họ? Rồi ông truyền làm Phép Rửa cho họ, hân danh Chúa Giêsu Ki Tô..." ( Act 10, 47-48).

   - " Ông ( Phaolồ ) hỏi: " Vậy anh em đã chịu phép rửa nào ? ". Họ đáp. " Phép rửa của ông Gioan ". Ông Phaolồ nói: " Ông Gioan đã làm phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Chúa Giêsu. Nghe nói thế , họ chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi ông Phaolồ đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri " ( Act 19, 3-6).  

Ngoài ra chúng ta cũng nên biết là công thức Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi cũng được ghi lại trong văn bản cổ xua và quan trọng nhứt Ki Tô giáo nhưng không thuộc về Tân Ước, đó là Văn Bản Giáo Lý Mười Hai Thán Tông Đồ ( Didaché ), được viết như sau:

   - " Về Phép Rửa, anh em hãy rửa tội như sau: sau khi đã chuẩn bị mọi việc, anh em hãy cử hành Phép Rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần " ( VII, 1 ). 

   b) Giáo lý tông truyền.

Nhưng sự ủy thác của Chúa Phục Sinh không chỉ giới hạn ra lệnh thi hành một phương thức bí tích để hội nhập vào Phúc Âm, mà còn nhắc nhở phải đón nhận những chỉ thị luật định trong đời sống,

   - " dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em ".

Nếu mọi việc chỉ nhằm vào cách thực hành các thể thức cử hành bí tích, sứ mạng Ki Tô giáo có thể bị lầm lẫn với việc tìm tòi các động tác phù thủy.

Ki Tô giáo còn có những gì sâu đậm hơn là những thể thức thực tiển bên ngoài, nhằm hoán chuyển đời sống con người qua xác tín và thái độ hành xử theo luân lý, làm cho mình được biến đổ theo lề luật của Chúa.

Như vậy với sứ mạng được Chúa Phục Sinh giao phó, các môn đệ bắt đầu thế hệ của Giáo Hôi, đó là thế hệ của việc giảng dạy luân lý, kiến tạo một cuộc sống thích hợp với sự hiểu biết , thái độ đón nhận và đem ra thực hành trong đời sống những gì đức tin Ki Tô giáo chỉ bảo cho:

  - " dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em ".

Ngoài ra động từ " tuân giữ " trong ngôn ngữ Hy Lạp không chỉ có ý ám chỉ thi hành một vài chỉ thị nào đó của lề luật, mà còn " gìn giữ " ( tuân theo và cất giữ lấy ) như là của cải qúy giá trong đời.

Như vậy Chúa Giêsu không nhằm khuyến dạy các môn đệ truyền dạy những ai vâng theo đức tin của qúy vị " tuân theo bên ngoài " các giới răn của Người, mà là gắn chặt, khắng khít, thân tình, tự do, vui tươi và xác tín đối với những gì Người chỉ bảo cho, như là quà tặng thương yêu mà Người trao cho chúng ta.

Văn bản của Phúc Âm Thánh Matthêu nhấn mạnh đến tính cách gắn chặt, khắng khít toàn diện vào việc tuân giữ các giới răn yêu thương, lợi ích mà Chúa Giêsu ban cho, và cũng không thể tuân giữ hay  khuông muốn tùy hứng, bởi vì đây là những điều thiết yếu cho cuộc sống thân tình với Chúa Ba Ngôi, đối với những ai đã nhận Phép Rửa:

   - " Vậy ai bỏ đi, dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhứt ấy, và dạy người ta làm như vậy, thì sẽ bị coi là kẻ nhỏ nhứt trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy như vậy, sẽ được gọi là kẻ lớn nhứt trong Nước Trời " ( Mt 5, 19)  

   4 - Thầy ở cùng anh em.

Sứ mạng của cộng đồng các môn đệ được ủy thác không tách rời khỏi lời hứa bí nhiệm và đầy hiệu lực trợ giúp của Chúa Phục Sinh.

Sự trợ lực đó của Người không phải lúc có, lúc không, nhưng là sự giám định và trợ lực liên tục, mà các môn đệ có thể tin cậy và ủy thác vào sự hiện diện mặc dầu vô hình, nhưng đầy uy lực của Chúa Phục Sinh:

   - " Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế " ( Mt 28, 20b).

Lời tuyên bố kết thúc vừa kể Phúc Âm Thánh Matthêu, được nói lên trong ngày Lễ Thăng Thiên, nhưng cũng là những lời nhắc lại lời hứa khi Chúa Giêsu đến trong lịch sử chúng ta , " Emmanuel ", Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Dĩ nhiên, như là con người với những giới hạn của mình, các môn đệ có thể lo lắng, nghi ngại, sợ hải cho việc thi hành sứ mạng được ủy thác, nhưng cộng đồng môn đệ có thể vững tin bởi vì họ có Chúa Giêsu luôn ở với họ. 

Thánh Matthêu muốn nhấn mạnh, không những thế giới nầy sẽ có ngày kết thúc, vào ngày cuối cùng lúc Chúa Ki Tô trở lại trong vinh quang của Người ( parusía ),

   - " Sau đó, lúc Người ngồi trên núi O - liu, các môn đệ tới gặp riêng Người và thưa: " Xin thầy nói cho chúng con biết, khi nào những sự ấy sẽ xảy ra và các điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế " ( Mt 24, 3),

nhưng ngay cả trong thời gian chờ đợi nầy, cũng đã có đầy sự hiện diện của Chúa, được thể hiện qua Chúa Phục Sinh

Như vậy, một lần nữa Phúc Âm cho chúng ta biết rõ Chúa Thăng Thiên, không phải là Chúa Ki Tô bỏ ra đi, vắng mặt, mà là biến cố Người được Chúa Cha thiết định vương quyền trên cả vũ trụ,  

    " Thầy đã được trao mọi quyền trên trời, dưới đất ". 

 Điều đó không hẵn mạc nhiên phải gồm cả việc Người bỏ rơi chúng ta và vắng mặt, mà từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện dưới phương thức khác.

Nếu Do Thái nhìn nhận sự hiện diện của Chúa Shekínah là tâm điểm đức tin của mình, hay là Thiên Chúa cư ngụ giữa dân Người, các môn đệ Chúa Giêsu xác quyết rằng sự hiện diện đó được thể hiện nơi Chúa Phục Sinh và Người hiện diện ở đâu có hai hay ba người họp lại vì danh Người.

Và ở đâu có Chúa Giêsu, thì ở đó cũng có Chúa Cha, Đấng luôn luôn lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người hợp nhau nhân danh Chúa Con:

   - " Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đó, ở giữa họ " ( Mt 18, 20).

Như vậy trong Cộng Đồng Giáo Hội có Chúa Giêsu hiện diện hay không?

Hỏi để mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô tự trả lời. 

 

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!