Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  GH. Đồng Trách Nhiệm
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI ( 1 )

NGUYỄN HỌC TẬP 

(Viết theo tài liệu giảng huấn của Cha Bartolomeo Sorge S.J., Nguyện Viện Trưởng Viện Đào Tạo Chính Trị Pedro Arrupe ( Istituto di Formazione Politica Pedro Arrupe S.J.- PA; cfr. Bartolomeo Sorge, Introduzione alla Dpttrina Sociale della Chiesa, Queriniana, Brescia 1996 ). 

I - Từ Phúc Âm đến Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.

Phúc Âm không phải chỉ được viết ra cho một số người hạn hẹp được đăc ân, có được đức tin.

Phúc Âm là sứ điệp cho mọi người được sinh ra trên mặt đất nầy, ở mọi nơi chốn và mọi thời đại.

Thật vậy, qua Lời của mình, Thiên Chúa không những mạc khải cho chúng ta đời sống thần linh của Người, nhưng đồng thời, còn

   - " mạc khải hoàn hảo chính con người cho con người " ( Gaudium et Spes, ( GS) n. 22, in EV 1/1385), trả lời cho những câu hỏi mà tất cả chúng ta đều đặt ra, bởi vì đó là những câu hỏi vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta:

   - tại sao tôi sống?

   - tại sao rồi một lúc nào đó tôi chết đi?

   - tại sao ai cũng phải chịu đau khổ, kẻ ít người nhiều ?

   - sau khi chết, chuyện gì sẽ xảy ra?

   - điều tốt đẹp đích thực cho con người và cho xã hội là những gì ? 

Phúc Âm là quyển sách duy nhứt, mà trong suốt hai ngàn năm không có lời xác nhận nào bị chối bỏ. Và nếu đôi khi, trước những hoàn cảnh lịch sử thực định, một vài người có thể nghi ngờ về chân lý của một lời dạy bảo nào đó của Giáo Hội, được trích ra từ Phúc Âm, trước sau gì luôn luôn chúng ta thấy được ( ví dụ sau 100 ý thức hệ sai lạc Cộng Sản bị Giáo Hội lên án) rằng Phúc Âm, trong khi định hướng cho con người, không bao giờ sai lầm và dối gạt con người.

Các thế kỷ dần dần qua đi, lịch sử luôn luôn xác nhận Phúc Âm có lý, mặc cho những giới hạn, yếu đuối của bao nhiêu con người rao giảng. 

   1 - Sứ mạng chính của Giáo Hội là sứ mạng tôn giao.

Sứ mạng của Giáo Hội là chính yếu rao giảng Phúc Âm, nghĩa là ơn cứu độ được Chúa Ki Tô tác động, bằng cách thông ban đời sống Thiên Chúa cho con người.

Như vậy, đó là sứ mạng chính yếu tôn giáo,

   - " chớ không phải thuộc về lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội " ( GS, 42, in EV 1/1450).

Là một sứ mạng chinh yếu siêu nhiên.  

Bởi vì siêu nhiên chính là căn cội của Giáo Hội:

   - " Giáo Hội khởi nguồn từ tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha, được thể hiện trong thời gian bởi Chúa Ki Tô Cứu Thế, được quy tựu lại trong Chúa Thánh Thần " ( GS, n. 40, in EV 1443),

Siêu nhiên là bản thế của Giáo Hội, nhưng Giáo Hộ cũng thể hiện mình cho mọi người thấy được. Thật vậy, Giáo Hội là

   - một cộng đồng đức tin, niềm hy vọng và đức bác ái "(...) mà qua Giáo Hội được phổ biến cho mọi người chân lý và ân sủng " ( Lumen Gentium ( LG), n. 8, in EV 1/ 304),

Siêu nhiên là mục đích cuối cùng mà Giáo Hội hướng dẫn chúng ta: đó là sự cứu rổi vĩnh cửu của con người,

   - " mục đích cuối cùng ngày cánh chung, không ai có thể đạt đến được, nếu không phải trong thế giới tương lai " ( GS, n.40, in EV 1/1443). 

Tuy nhiên, bản chất tôn giáo và siêu nhiên  đó của Giáo Hội và sứ mạng của mình, không những không làm cho Giáo Hội tách rời khỏi lịch sử và các thực tại trần thế, nhưng đúng hơn là luôn luôn hiện diện trong các thực thể đó. Giáo Hội nhập thể thực hiện chính mình:

   - " Nước Chúa được thực hiện trong lịch sử, trong đó sự góp phần của các biến cố không phải chỉ là những gì đơn sơ thêm vào nhãn quang con người, như là một chủ thể tự tại không liên hệ gì với không gian và thờ gian " ( M.D. Chenu, La dottrina sociale della Chiesa. Origine e sviluppo ( 1891-1971), Queriniana, Brescia 1977, 50). 

Điều đó  giải thích tại sao

   - " công trình cứu độ của Chúa Ki Tô, trong khi tự bản thể mình là có mục đích để cứu rổi con người, nhưng đồng thời cũng bao gồm cả việc thiết lập trật tự trần thế. Bởi đó sứ mạng của Giáo Hội không phải chỉ là đem sứ điệp của Chúa Ki Tô và ân sủng của Người đến cho con người, mà còn cả hệ tại ở việc năng động và hoàn hảo hoá trật tự trần thế bằng tinh thần Phúc Âm " ( Apostolicam Actuositatem ( A A ), n.5, in EV 1/ 932). 

Bởi đó sứ điệp Phúc Âm về con người và về xã hội

   - " không phải chỉ là sứ điệp được đem đến cho người tín hữu Chúa Ki Tô, mà còn cho tất cả những ai thành tâm thiện chí, mà trong trái tim của họ ân sủng đang tác động một cách vô hình. Thật vậy, Chúa Ki Tô đã chết cho tất cả, và ơn gọi sau cùng của con người thực sự chỉ là một, đó là ơn gọi của Thiên Chúa " ( GS, n. 22, in EV 1/1386). 

   2 - Phúc Âm giải thoát con người.

Như vậy có một mối liên hệ chặt chẽ giữa loan báo Phúc Âm và giải thoát con người.

Không thể rao giảng Phúc Âm, nếu con người không được thăng tiến trong đời sống dân sự:

   - " Phúc Âm của Chúa Giêsu Ki Tô là một sứ điệp tự do và là một dòng lịch sử giải thoát; trước tiên và chính yếu là giải thoát khỏi nô lệ căn nguyên của tội lỗi; và bởi đó là giải thoát con người toàn vẹn, điều đó đưa đến một cách hợp lý, là giải thoát khỏi ách nô lệ đa dạng trong lãnh vực văn hoá, kinh tế và xã hội. Tất cả những ách nô lệ đó đều là hậu quả của tội lỗi và tạo nên những chướng ngại vật không cho phép con người có được cuộc sống thích hợp với phẩm giá của mình " ( Congregazione Per La Dottrina della Fede, Libertatis nuntius ( 06.08.1984), in EV IX/866). 

Đến đây thì một câu hỏi căn bản được đặt ra, đó là phải loan báo Phúc Âm thế nào để cho mọi người đều có thể hiểu đươc và đón nhân.

Đó là vấn đề liên hệ giữa Phúc Âm và văn hoá.

Thật vậy, nếu sứ điệp giải thoát của Thiên Chúa không được hoán chuyển

   - thành những giá trị,

   - thành phong tục tập quán,

   - thành ngôn ngữ và thành biểu thị trong văn hóa,

sứ điệp đó vẫn còn là sứ điệp câm nín và không thể hiểu được cho chủ thể mà sú điệp được chuyển đến.

Làm thế nào có thể được đón nhận và sống theo gương mẫu của sứ điệp?

Đức Thánh Cha Phaolồ VI có lý chứng khi ngài xác quyết:

   - " Nỗi thảm đạm của thời đại chúng ta là sự rạn nứt giữa Phúc Âm và văn hoá " ( ĐTC Phaolồ VI, Evangelii nuntiandi ( 08.12.1975), n.  20, in EV V/ 1612).   

Dĩ nhiên thái đô gia nhập liên kết của con người với những gì Thiên Chúa mạc khải cho ( qua động tác đức tin) là thái độ có đặc tính siêu nhiên và thiêng liêng, bởi vì là thái độ đặt tin tưởng của mình vào Lời Chúa bất thay đổi và tất yếu, với sự sự trợ lực phải có của ơn Chúa.

Trái lại văn hoá là một hiện tượng thoát xuất từ  căn cội nhân loại và có tính cách nội tại nơi con người, thay đổi tùy theo thời gian và nơi chốn.

Tuy nhiên,

   - mặc dầu không thể quy tóm tất cả vào thực thể văn hóa,

   - đức tin không thể nào không diễn tả mình được trong một nền văn hoá, hay đúng hơn trong các nền văn hoá khác nhau.

Mạc khải và Phúc Âm

   - " dĩ nhiên không đồng hoá mình với văn hoá và độc lập đối với mọi nền văn hoá. Tuy nhiên Vương Quốc mà Phúc Âm loan báo là Vương Quốc được các con người sống có liên hệ sâu đậm đối với một nền văn hoá và việc xây dựng Vương Quốc không thể không dùng đến những yếu tố của văn hoá và của các văn hoá con người. Độc lập đối với các nền văn hoá, Phúc Âm và việc loan báo Phúc Âm không nhứt thiết phải đối nghịch lại với văn hoá, trái lại có khả năng thấm thấu vào tất cả mọi văn hoá, mà không phải tùy thuộc vào bất cứ một văn hoá nào " ( ĐTC Phaolồ VI, Evangelii nuntiandi, cit.).

Điều đó giải thích tại sao, sống trong hiện trạng của ngàn năm thứ ba mới  vừa bắt đầu, đòi buộc phải có phương thức loan báo Phúc Âm mới, một cuộc hội nhập văn hoá ( inculturazione) mới của đức tin, để cho Phúc Âm có thể được mọi người biết đến, chấp nhận và trở thành men bột cho thế hệ mới vừa ló dạng. 

   3 - Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là điều chính đáng.

Hâu quả của những suy nghĩ được đề cập, chúng ta có thể kết luận rằng Giáo Hội có quyền và bổn phận phải can thiệp vào lãnh vực xã hội.

Đó là điều có liên quan đến sứ mạng loan truyền Phúc Âm của mình. Từ đó đưa đến việc huấn dạy về xã hội của Giáo Hội là điều chính đáng, được đặt nền tảng trên hai nguyên cớ chính.

   a ) Nguyên cớ thứ nhứt đó là vì lãnh vực luân lý có liên hệ mật thiết với lãnh vực siêu nhiên. Thật vậy, Công Đồng Vatican II giải thích: 

    * " chính những sự vật trần thế và các cơ cấu tổ chức của con người, trong đồ án của Thiên Chúa, được thiết lập nên để nhằm cho phần rổi của con người " ( Christus Dominus, n. 12, in EV 1/ 597). 

Như vậy Giáo Hội có thẩm quyền can thiệp vào các vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị trong các trương độ nào các môi trường vừa kể có liên quan đến lãnh vực luân lý.

Dĩ nhiên là các sự can thiệp đó vẫn còn nằm trên bình diện luân lý và tôn giáo, bởi lẽ Giáo Hội không có thẩm quyền cá biệt đối với những vấn đề kỷ thuật chuyên môn. 

Đức Thánh Cha Pio XI đã viết:

   - " Không có bất cứ trưòng hợp nào, trong đó Giáo Hội có thể khước từ bổn phận được Chúa giao phó cho để can thiệp với uy quyền của mình, không phải vào những sự việc chuyên môn, mà đối với những lãnh vực đó Giáo Hội không có phương tiện thích ứng cũng như không có sứ mạng phải đối xử, nhưng phải can thiệp vào những gì có liên quan đến luân lý " ( ĐTC Pio XI, Quadragesimo Anno ( 15.05.1931), n. 45, in CERAS, 79). 

Như vậy Giáo Hội,

   - trong khi hoàn toàn tôn trọng đăc tính trần thế và tự lập của các thực tại trần thế,

   - vẫn không ngần ngại trình bày mình trước mặt thế giới như là chủ thể

    * " có kinh nghiệm về con người " có khả năng hiến tặng cho thế giới " những gì mình có của chính mình: một nhãn quang toàn diện về con người và về xã hội " ( ĐTC Phaolồ VI, Populorum progressio ( 26.03.1967),n. 13, in EV II / 1058)    

   b)  Nguyên cớ thứ hai làm cho lời huấn dụ xã hội của Giáo Hội có tính cách chính danh, đó là sự kiện sự mạc khải Ki Tô giáo có một chiều hướng lịch sử nội tại trong bản tính của mình.

Chương trình cứu rổi được thực hiện trong lịch sử, vẫn còn đang diễn biến hiện tại. Chúa Ki Tô là Thiên Chúa đi vào lịch sử thế giới, đảm nhận và quy hướng lịch sử đó về với mình ( Gaudium et Spes, n. 18, in EV 1/ 1437).

Biến cố nhập thể được thực hiện đầy đủ trong cả lịch sử nhân loại, qua các thời đại khác nhau, tùy theo sự nối tiếp nhau của các nền văn hoá và trải qua những chuổi giải phóng lịch sử cá biệt, được thể hiện lên trong việc nhân bản hoá thế giới,  

   - " mặc cho tội lỗi của mình, những lần sa ngã trở lại vào thói ăn ở man rợ và những đoạn thời gian lâu dài đi ra bên ngoài con đường cứu rổi, nhân loại đang dần dần, mặc dầu chậm chạp và vô ý thức, hướng về Đấng Tạo Hoá của mình, mặc cho họ có ý thức được hay không " ( ĐTC  Phaolồ VI, Populorum progressio ( 26.03.1967), n. 79, in EV II/ 1124). 

Bởi đó mặc dầu vẫn xác tín tính cách bất di dịch của chân lý về con người, được Chúa mạc khải cho, người tín hữu Chúa Ki Tô không thể không đếm xiả gì đến các hoàn cảnh lịch sử và văn hoá không ngừng thay đổi và chuyển hóa, mà trong đó chân lý Phúc Âm phải được họ trung thành và tuần tự " hội nhập văn hoá " ( inculturazione). 

Điều vừa kể giải thích cho chúng ta tại sao Giáo Hội không thể không can thiệp vào các vấn đề xã hội, và các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội luôn luôn là những huấn dụ mở rộng.

Lý do đích thực là, trong khi cùng chia xẻ, đảm nhận lấy như là của mình

   - " các nỗi vui mừng và hy vọng, các điều buồn phiền và âu lo của con người " Giáo Hội cảm nhận và thực sự thân tình liên đới với nhân loại và với lịch sử của họ " ( GS,n. 1, in EV 1/ 1319). 

Và như vậy Giáo Hội cùng chia xẻ với nhân loại các vấn đề quan trọng của con người,

   - " cống hiến cho con nguời ánh sáng thoát xuất từ Phúc Âm " , với mục đích " giải thoát con người và canh tân xã hôi con người " ( GS, n. 3, in EV 1/ 1322). 

Dĩ nhiên là Giáo Hội chỉ có thể cống hiến cho, chớ không phải áp đặt, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội. Nguời ta có thể khước từ, không chấp nhận.

Dầu vậy, Giáo Hội không nản chí và cảm thấy mệt mỏi, vẫn tiếp tục soi sáng các trạng huống thay đổi của lịch sử con người bằng ánh sáng bất di dịch của Phúc Âm, bằng cách tặng cho các tín hữu Chúa Ki Tô và tất cả những ai thành tâm thiện chí

   - các nguyên tắc để suy nghĩ,

   - các tiêu chuẩn để phán đoán

   - và các đinh hướng để hành động.

Tất cả những điều đó được bao gồm trong Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.

Huấn Dụ đó đã được khởi điểm từ trên một trăm năm qua ( với Thông Điệp Rerum Novarum, 1891, của ĐTC Leo XIII) và hiện nay vẫn còn mở rộng và tiếp tục.

   4 - Chủ Thuyết Xã Hội của Giáo Hội.

Chính Phúc Âm đã là một sứ điệp xã hội. Điều đó đã được chứng minh bởi sự kiện, ngay từ lúc đầu,  

   - chính lời giảng dạy của Chúa Ki Tô,

   - của các Thánh Tông Đồ

   - và của các Đại Giáo Phụ trong Giáo Hội

là những gì hằng đối chiếu và mở rộng đối với những vấn đề của đời sống xã hội ( I. Giordani, IL messaggio sociale del cristianesimo, Città Nuova, Roma 1960).   

Tuy nhiên ngày nay mọi người đều công nhận rằng, khởi đầu từ Thông Điệp Rerum Novarum của ĐTC Leo XIII ( 1891), Giáo Hội chăm lo dấn thân để có một câu trả lời giáo lý và có hệ thống đối với những vấn đề của con người, được phát sinh ra từ " vấn đề xã hội ", được bùng nổ lên trong thế giới hiện đại với cuộc cách mạng kỷ nghệ.

Trên thực tế, đây là một cuộc đối chiếu, không bao giờ gián đoạn, trong đó Giáo Hội dần dần cập nhật hoá các lời huấn dạy của mình đối với những vấn đề mới mà các trạng huống của các " vấn đề xã hội" tiếp tục đưa đến.

Chính việc biến chuyển song song giữa " vấn đề xã hội " và các lời  tuyên bố quyền huấn dạy của Giáo Hội đưa ra những cuộc tranh luận, không phải chỉ là cuộc tranh luận hàn lâm viện: đó là tranh cải đặt câu hỏi  việc can thiệp của Giáo Hội vào lãnh vực xã hội có giá trị nào?

Như vậy cần phải gọi là

   - " chủ thuyết xã hội của Giáo Hội " ( dottrina sociale della Chiesa ) 

   - hay " huấn dạy xã hội của Giáo Hội " ( insegnamento sociale della Chiesa ) ? 

" Chủ thuyết hay giáo lý xã hội của Giáo Hội " ?

Từ ngữ " chủ thuyết , giáo lý " ( dottrina) thường được dùng để ám chỉ nội dung và chất liệu của lời giảng dạy, nghĩa là một tổng hợp phức tạp các nguyên tắc và các lời tuyên bố, kêt quả của công trình diễn dịch thuyết lý, được trình bày có cấu trúc và có hệ thống.

Tỉnh từ " xã hội " trong tên gọi " chủ thuyết, giáo lý xã hội của giáo Hội " xác định rõ đây là một chủ thuyết về việc cấu trúc và thiết lập trật tự xã hội, trên thực tế làm thế nào để hướng dẫn xã hội đạt được công ích.

Bởi đó " chủ thuyết, giáo lý xã hội ", khác biệt với việc khai triển lý thuyết, bởi lẽ là định hướng nhằm thực hiện động tác xã hội và chính trị, được hiểu với ý nghĩa rộng rãi của từ ngữ ( B. Sorge, È superato il concetto tradizionale di dottrina sociale della Chiesa ?,in La Civiltà Cattolica ( 1/1968), 423-436).  

Dĩ nhiên với quan niệm vừa kể, " chủ thuyết,  giáo lý xã hội " , theo ý nghĩa là một khối các lời tuyên bố và chỉ thị, được quyền huấn dạy cua Giáo Hội khai triển và các tín hữu giáo dân bị bắt buộc phải tuân hành - có cùng ý nghĩa với cách phát biểu trong các lần can thiệp vào xã hội, từ ĐTC Leo XIII đến ĐTC Pio XII.

Đó lá " quan niệm công giáo đặc thù " và là " con đường thứ ba ", được khai triển để trả lời cho các giai đoạn khởi đầu của " các vấn đề xã hội ", trước " những con đường " và " những ý thức hệ  đối ngược nhau, đó là ý thức hệ " xã hội chủ nghĩa thực tế " và " tư bản chủ nghĩa ".

   5 - Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.

Trái lại đề cập đến " Huấn Dụ Xã Hội cua Giáo Hôi " ( Insegnamento Sociale della Chiesa) là chúng ta nhấn mạnh  đến

   - tính cách lịch sử

   - và thực dụng các việc can thiệp vào lãnh vực xã hội của quyền huấn dạy của Giáo Hội,

mặc dầu dĩ nhiên không loại bỏ đặc tính " chủ thuyết, giáo lý " ( dottrinale ).

Dùng từ ngữ "huấn dụ " đang bàn, chúng ta chỉ có ý nhấn mạnh đến phương thức khác hơn của việc Giáo Hội can thiệp vào các vấn đề xã hội. Đó là

   - thay vì khởi đầu từ xác định trên lý thuyết các nguyên tắc để kiểm chứng việc thực hiện điều mình đề xướng trong khuôn mẫu lịch sử ( theo nguyên tắc diễn dịch),  

   - Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội nhằm đặt năng hơn khởi đầu từ việc quan sát " các dấu chỉ thời đại", để từ đó giải thích các dấu chỉ đó dưới ánh sáng và theo các nguyên tắc Phúc Âm và từ đó xác định những lựa chọn phải thực hiện.

Như vậy Huấn Dụ đưa ra một khuôn mẫu lịch sử xác thực trong thời gian và tùy nơi chốn ( theo phương thức quy nạp).

Bởi đó từ ngữ " huấn dụ " có thể diễn tả được tính cách năng động và biến hoá lời dạy bảo của Giáo Hội hơn về vấn đề xã hội, vượt ra khỏi tính cách cố đinh bất động của quan niệm " chủ thuyết ". 

Đó chính là lý do tại sao Công Đồng Vatican II đã muốn tránh dùng từ ngữ " chủ thuyết xã hội " ( dottrina sociale) trong các tài liệu.

Chúng ta có được lý chứng đó trong Ghi Chú ( Nota ), mà các Nghị Phụ đã muốn xác định nổi bật trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes. Trong Ghi Chú đó của Hiến Chế, chúng ta đọc được:

   - " cần đặc tâm lưu ý xác thực hơn đến các phương diện khác nhau của đời sống ngày nay và của xã hội nhân loại, là những câu hỏi và những vấn đề có liên quan, mà ngày nay có vẻ khẩn cấp hơn. Bởi đó đề mục được cứu xét dưới ánh sáng các nguyên tắc giáo lý không phải hoàn toàn gồm những yếu tố bất di dịch, nhưng cũng chứa đựng những thay đổi " ( Gaudium et Spes, nota 1, cfr. R. Tucci, La vie de la communauté politique, in Vatican II. Commentaires, Ed. Cerf, Paris 1967, 544, nota 37).  

Cũng chính vì lý do vừa kể mà Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ La Tinh, nhóm họp tai Puebla năm 1979 trong lần thuyết giảng lần III, đã muốn dùng từ ngữ " huấn dụ xã hội " ( insegnamento sociale) , để tránh dùng " chủ thuyết xã hội " ( dottrina sociale). 

Hay nói đúng hơn bản văn được Ủy Ban VI soạn thảo và được các Nghị Phụ của Hội Đồng chuẩn y đề cập đến " các huấn dụ xã hội ", ở số nhiều, để  nhấn mạnh đến tính cách năng động và khác nhau của các lần Giáo Hội can thiệp về vấn đề xã hội:

   - " Đặc tâm lưu ý đến các dấu chỉ thời đại, được giải thích dưới ánh sáng Phúc Âm và quyền huấn dạy của Giáo Hội - cả cộng đồng Ki Tô giáo đều được mời gọi hãy đảm nhận trách nhiệm về các lựa chọn thiết thực và về việc thực hiện thực hữu các lựa chọn đó, để đáp ứng lại các đòi hỏi mà các hoàn cảnh thay đổi đang diễn ra. Những huấn dụ xã hội đó kế đến có đặc tính năng động, trong việc khai triển và áp dụng, mà nguơi tín hữu giáo dân không phải chỉ là những kẻ thừa hành thụ động, mà là những công tác viên với các vị chủ chăn, mà cung cấp cho các vị ,họ đem đến kinh nghiệm và thẩm quyền nghề nghiệp của mình " ( Documento finale di Puebla, n. 47. Comunione e partecipazione, AVE, Roma 1979, 595).

Nhưng thời gian sau đó và hiện nay, trong Giáo Hội được dùng cả hai từ ngữ " chủ thuyết, giáo lý " (dottrina) và " huấn dụ " ( insegnamento ), để ám chỉ các tài liệu hưóng dẫn về xã hội của Giáo Hội.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã diễn tả một cách xác thực và dùng từ ngữ " chủ thuyết xã hội " ( dottrina sociale ), nhưng  với ý nghĩa " huấn dụ " ( insegnamento), mà từ sau Đại Hội Đồng Giám Mục Puebla, các tài liệu về xã hội của Giáo Hội đều được gọi là " huấn vụ "  và với ý nghĩa là để huấn dạy: 

   - " Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không phải là con đường thứ ba giữa tư bản tự do chủ nghĩa và tập thể Mác xít chủ nghĩa, cũng không phải là một giải pháp khác đối với những chủ thuyết kém quá khích hơn.

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là một loại sứ điệp huấn dạy đứng tách biệt. 

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội cũng không phải là một ý thức hệ, mà là sứ điệp được khai triển cẩn thận từ kết quả của những suy tư trên các thực thể phức tạp của con người trong xã hội và trong bối cảnh quốc tế, dựa trên ánh sáng đức tin và truyền thống Giáo Hội. Muc đích chính của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là giải thích các thực tại đó, bằng cách duyệt xem thích hợp hay không với những gì Phúc Âm huấn dạy về con người và về ơn gọi trần thế của con người, và cả về mục đích siêu nhiên, mà con người nhắm đến.

Bởi đó Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không thuộc về lãnh vực ý thức hệ, mà đúng hơn là về lãnh vực thần học, nhứt là thần học luân lý " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Sollecitudo rei socialis ( 30.12.1987), n. 41, in EV x/2669). 

Nói tóm lại, hiện nay mặc dầu chúng ta quen dùng từ ngữ " Huấn Dụ " ( insegnamento ) để chỉ các lời dạy bảo, hướng dẫn về các vấn đề xã hội của Giáo Hội, nhưng theo nguyên bản tên gọi của Toà Thánh bằng La Ngữ là " Doctrina " ( chủ thuyết, giáo lý ) về xã hội mà Giáo Hội muốn lưu ý con cái mình:

   - đó là những gì lời dạy bảo, kết quả từ những suy tư quy nạp, nhận thức từ các thực thể dưới ánh sáng giáo lý Ki Tô giáo. Bởi đó là những lời huấn dạy ( insegnamenti )  bắt buộc đối với con cái mình, khi hành xử trong các lãnh vực xã hội, kinh tế chính trị.

   - Những lời dạy bảo đó, không phải chỉ là những suy tư quy nạp từ các kinh nghiệm hiện thực, mà là các kết quả quy nạp dưới ánh sáng Ki tô giáo, ( doctrina, chủ thuyết, giáo lý ), người tín hữu Chúa Ki Tô không có gì phải lo sợ sai lạc. ( còn tiếp ).

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!