Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Tư Liệu Giáo Hội
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI ( 3 )

NGUYỄN HỌC TẬP

Ki Tô giáo trong một giai đoạn mới ( 1931-1958). 

Năm 1931, khi Đức Thánh Cha Pio XI viết Thông Điệp Quadragesimo Anno, thì " vấn đề xã hội " đã thay đổi rất nhiều.

Dĩ nhiên " vấn đề công nhân " vẫn còn tồn tại, nhưng biên giới các cuộc đụng độ đã lan rộng ra nhiều và mãnh liệt hơn.

Cuộc đối đầu không còn chỉ ở giữa hai hạng " chủ " và " công nhân " và giữa các chủ đề lý thuyết và  trừu tượng của hai ý thức hệ ( xã hội chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa), mà giữa những khuôn mẫu tổ chức Quốc Gia, được thoát xuất từ hai chủ thuyết đó.

   1 - Xã hội chủ nghĩa thực hữu ( socialismo reale).

Năm 1917, với cuộc Cách Mạng tháng 10, ý thức hệ mác xít không còn chỉ là những gì suy diễn thuyết lý, mà được thể hiện thiết thực thành hệ thống chính trị và kinh tế.

Đã trở thành xã hội chủ nghĩa thiết thực, cộng sản chủ nghĩa. 

Cuộc chạm trán với Giáo Hội liền trở nên dữ dội, bắt đầu từ khi thiết lập trên Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết " chế độ ly khai " ( 23 tháng giêng, năm 1918).

Cộng Sản chủ nghĩa hiện nguyên hình, trên lý thuyết cũng như trên thực tế, là đối thủ của tôn giáo.

Marx cho rằng tôn giáo là một chứng bệnh của tinh thần băng hoại,

    - " một phản ảnh của thế giới thực tại ", sẽ phải tan biến đi khi tư bản chủ nghĩa kết thúc " ( Karl Marx, IL Capitale, libro I, c. I, IV: IL carattere feticcio della merce e il suo segreto,Utet, Torino 1960, 50). 

Về phần mình, Lenin còn khắc khe hơn, dẹp bỏ đi mọi ảo tưởng có thể:

   - " Mác xít chủ nghĩa là duy vật chủ nghĩa. Trong vị trí đó, mác xít chủ nghĩa là kẻ thù không đội trời chung với tôn giáo, không khác gì duy vật chủ nghĩa của các nhà bách khoa trong thế kỷ XVIII hay duy vật chủ nghĩa của Feuerbach. Về vấn đề nầy không có một mãi mai nghi ngờ nào ( ...) Chúng ta phải chống lại tôn giáo. Và đây là thượng đỉnh của tất cả chủ thuyết duy vật và như vậy, cũng của mác xít chủ nghĩa" ( V.I.U., IL partito operaio verso la religione, in Opere Complete, XV ( 03. 1908 - 08 1909), Ed. Riuniti, Roma 1967, 384).

Trong một bản văn thời danh khác, Lenin còn thêm:

   - " Tôn giáo là thuốc phiện đối với dân chúng. Tôn giáo là một loại rượu mạnh thiêng liêng, trong đó các người nô lệ của tư bản chủ nghĩa lặn ngụp chết chìm đi nhân cách của họ và một cách nào đó làm chết chìm đi quyền được sống xứng đáng với con người " ( In Novata Gizn, n. 28 ( 16.12.1905). 

Ở Tây Âu nhiều đảng cộng sản quốc gia là tiếng dội của những gì vừa đề cập. Chỉ cần lấy một ví dụ ở Ý Quốc, Gramsci xác quyết rằng:

   - "Mác xít chủ nghĩa đặt nền tảng trên khung sườn triết lý " nuốt trửng đi tư tưởng về Thiên Chúa ", ai có ước vọng làm cho mác xít chủ nghĩa chấp nhận tư tưởng về tôn giáo " cũng giống như người cho rằng hình vuông có thể trở thành tam giác " ( cit. by A. Pozzolini, Che cosa ha detto veramente Gramsci, Ubaldini, Roma 1968, 128).  

Và tiếp theo lời nói là hành động.

Bất cứ ở đâu cộng sản chủ nghĩa chiếm được chính quyền, ở đó tôn giáo bị ngăn cấm, thường khi cả với những phương thức tàn bạo. Dù sao đi nữa cộng sản cũng dùng các phương thức quyền lực quốc gia, nhứt là hành chánh làm cho tôn giáo khó hay không thể sống được.

Tất cả những điều đó, chúng ta đừng quên, nếu không có cái nguy là ngày nay không hiểu được phản ứng mạnh mẻ và cứng rắn của Giáo Hội.

Trước những cơn khủng bố, tàn sát của Stalin, ngự trị trên chính trường trong suốt 30 năm ( từ năm 1921, khi ông ta được chọn làm Tổng Bí Thư Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Sô Viết, cho đến lúc chết, ngày 05 tháng 3 năm 1933), ĐTC Pio XI và Pio XII đã can thiệp một cách rất cứng rắn. 

Tuy nhiên, Thông Điệp Quadragesimo Anno , trong khi phân tích những biến chuyển đang diễn ra, cũng không quên lưu ý rằng xã hội chủ nghĩa thực tế không phải đều rập khuôn bất cứ ở đâu.

Bên cạnh Cộng Sản Chủ Nghĩa,

   - " ở bất cứ đâu thu tóm được quyền hành, thì ở đó thật là không thể tưởng tượng được luôn luôn thế nào là độc ác, hung bạo và vô nhân đạo " ( ĐTC Pio XI, Quadragesimo Anno ( 15.05.1931), n. 120, in CERAS, 100s),

chúng ta cũng thấy có một xã hội chủ nghĩa chừng mực, dường như

   - " biến chuyển và một cách nào đó tiến gần đến các chân lý, mà truyền thống Ki Tô giáo luôn luôn luôn luôn long trọng giảng dạy ", đến nỗi, như ĐTC xác nhận,

   - " một đôi khi chủ trương của họ đứng rất sát gần với các điều mà các vị Ki Tô hữu canh tân xã hội có lý do để đề ra " ( id., n. 122, in CERAS, 101). 

Dầu vậy, mặc dầu xã hội chủ nghĩa chừng mực ( cũng như tất cả những sai lầm khác), chứa đựng một vài điều xác đáng, chân lý, chúng ta không nên để mình bị lường gạt:

   - " Không ai có thể đồng thời vừa là người công giáo, vừa là thành viên của xã hội chủ nghĩa " ( id. n.130, in CERAS, 104).  

Như vậy, sự đoạn tuyệt giữa Giáo Hội và Cộng Sản Chủ Nghĩa hay Xã Hội Chủ Nghĩa là đoạn tuyệt tuyệt đối.

Không lâu sau đó, Thông Điệp Divini Redemptoris ( 19.03.1937) chụp lấy ngực cộng sản chủ nghĩa và tuyên bố vạ tuyệt thông, nói lên thái độ cứng rắn của Giáo Hội đối với cộng sản chủ nghĩa và cho biết cả lý do:

   - " Cộng Sản Chủ Nghĩa tự bản thể mình là chống tôn giáo, và cho rằng " tôn giáo là thuốc phiện đối với dân chúng " ( ĐTC Pio XI, Divini Redemptoris, n. 22 ( IG).

bởi đó

   - " Cộng Sản Chủ Nghĩa từ trong nội tại của mình là một chủ thuyết gian tà ( perverso) và không ai có thể chấp nhận cộng tác được với chủ thuyết đó, trong bất cứ lãnh vực nào, bất cứ ai muốn giải thoát nền văn minh Ki Tô giáo " ( id. n. 58 ( IG ).  

Đức Thánh ChaPio XII tiếp tục con đường, mà vị Tiền Nhiệm của ngài đã khởi sự.Ngày 1 tháng 7 năm 1949 chuẩn nhận và công bố Nghị Quyết thời danh dứt phép thông công ( anatema sit )  của Văn Phòng Toà Thánh: 

   - " Các tín hữu tuyên xưng giáo điều của cộng sản chủ nghĩa, duy vật và chống Ki tô giáo, và nhứt là những ai bênh vực chủ thuyết đó hay đứng ra tuyên truyền, bởi chính do việc  hành xử của mình ( ipso facto ), bị coi như là kẻ chối bỏ đức tin công giáo, phải chịu phán quyết vạ tuyệt thông một cách đặc biệt, chỉ dành cho quyền của Văn Phòng Toà Thánh " ( Decreto Sant'Uffic 41io  ( 28 06 ( 01.07) 1949. in AAS 41 ( 1949) 334 8 Denz - Huener, 3865). 

Như vậy giữa Giáo Hội và cộng sản chủ nghĩa được xác nhận là có sự rạn nứt tách rời vĩnh viễn và loại trừ hẵn bât cứ một cuộc gặp gỡ, đối thoại nào có thể ( Risposta confermata dal Papa, il 2 .04. 1959: " No, a norma del decreto del Sant'Ufficio del 01.07.1949, n. 1, in AAS, 51 ( 1959) 27s.( Denz-Huener, 3950). 

Nói tóm lại, trong khoản thời kỳ thứ hai của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, nhứt là dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Pio XI và Pio XII, mối liên hệ với vô thần cộng sản chủ nghĩa là cuộc đối đầu tuyệt đối và dùng sức mạnh dữ dội.

Cuộc tranh đấu công khai chống lại tôn giáo cản trở làm cho không thể nào có được một cuộc suy nghĩ thanh thoảng về xã hội chủ nghĩa thực tế. Mọi cuộc đối thoại chính đáng phải có hay ngay cả một cuộc phân tích vô tư, đều bị cản trở từ trong trứng nước.

Phía cộng sản muốn tiêu diệt tôn giáo, phiá Giáo Hội không còn có cách nào khác hơn là đóng kín,    " cửa đóng then gài " và phản ứng và với vạ tuyệt thông đối với bất cứ ai ủng hộ, tuyên xưng, loan truyền và gia nhập đảng cộng sản.

   2 - Tân tự do chủ nghĩa.

Cũng trong thời gian đang được đề cập về cộng sản  chủ nghĩa như vừa nói, chủ thuyết tự do theo khuôn mẫu Manchester đi vào khủng hoảng.

Năm 1929 thị trường chứng khoáng Wall Street ( New York ) bị sụp đổ và cuộc tuột hậu kinh tế thể hiện rõ nhược điểm của ý thức hệ tự do cổ điển.

Kinh tê tư bản được chuyển đổi.

Từ cơn khủng hoảng kinh tế nảy sinh ra  một khuôn mẫu kinh tế tư bản mới và Quốc Gia tự do, mà căn nguyên lý thuyết, chúng ta có thể tìm thấy một cách tổng quát trong phiên đúc kết cuộc hợp mặt Lippmann ở Paris ( Colloquio Lipmann ) năm 1938, nơi quy tụ các nhà đại kinh tế gia thời danh của chủ thuyết tân tự do chủ nghĩa kinh tế, như Walter Lipmann, Friedrich von Hayek, Ludwig von Mises, Wilhelm Roepke, Jacques Ruel và nhiều nhân vật khác nữa.

Chủ nghĩa tân tư bản kinh tế vẫn giữ chặt nguyên tắc căn bản của chủ thuyết tự do cổ điển, nghĩa     là

   - quyền tự do hoàn toàn có sáng kiến kinh tế

   - và thị trường tự do, nhưng bác bỏ đi các tư tưởng quá khích về đướng lối " để tự do hoàn toàn hành động " ( laissez faire" , bằng cách mở đường cho " đường lối kinh tế hổn hợp " ( economia mista).

Điều đó có nghĩa là bên cạnh người dân có toàn quyền sáng kiến kinh tế, cơ chế Quốc Gia không những chỉ đóng vai trò trọng tài hay cảnh sát giữ an ninh, mà còn bị bắt buộc phải can thiệp để chỉnh đốn lại các sức mạnh trong kinh tế.

Bổn phận của cơ chế Quốc Gia là

   - bảo toàn tính cách ngay thẳng trong cạnh tranh

   - và ngăn cản hiện tượng độc quyền làm cho thị trường không thể nào hoạt động  được.

Hiểu như vậy, chúng ta thấy được chủ thuyết tân tự do kinh tế chấp nhận đường lối hoạt động kinh tế theo chương trình được cơ chế Quốc Gia can thiệp đề xướng để hướng dẫn, nhưng không phải là thiết đinh chương trình, đường lối có tính cách bắt buộc theo kinh tế chỉ huy.

Hơn nữa khi soạn thảo chương trình, định hướng cho hoạt động kinh tê,

   - không phải chỉ có cơ thế quốc gia ngồi vào bàn giấy, soạn thảo rồi phán xuống phải thi hành,

   - mà là các chỉ thị, nghị quyết đều phải có sự góp ý đồng thuận của các thành phần liên hệ,

     * trung ương cũng như địa phương,

     * chủ nhân cũng như nghiệp đoàn công nhân,

     * cơ sở sản xuất cũng như giới tiêu thụ.

Nói ngắn gọn, Quốc Gia phải can thiệp,

   - nhưng phải giới hạn tối đa các cuộc can thiệp của mình đến đâu có thể, để cho dân chúng được tự do,

   - ngăn cản và loại trừ tập trung độc quyền,

   - giảm thiểu tối đa việc tiêu dùng công qủy và mức thuế vụ, để khuyến khích sản xuất. 

Về vấn đề đối chọi giữa vốn liếng tiền bạc và việc làm, tân tự do chủ nghĩa cho rằng không thể nào có thể tước bỏ đi được, bởi lý do tự bản tính triết học và của việc sinh lợi lộc của vốn liếng.

Tuy nhiên chủ thuyết cũng chấp nhận rằng cơ chế Quốc Gia phải tìm cách giảm bớt các mối bất bình đẳng không thể nào tránh được trong xã hội, nhứt là bằng phương thức tiên liệu, bảo trợ và phụ cấp xã hội. Tuy nhiên động tác đó không thể bắt buộc đối với tất cả mọi người, để tránh việc trách nhiệm cá nhân được thay thế bằng trách nhiệm tập thể, có thể tạo cơ hội cho cá nhân có cách sống vô trách nhiệm:mọi chuyện đã có bộ xã hội, bộ y tế lo cho. Khoẻ re , ta cứ ăn không ngồi rồi ! 

Sau cùng, đối với vấn đề quyền tư sản tân tự do kinh tế chủ nghĩa vẫn tiếp tục quan niệm đó là yếu tố có liên quan đến cá nhân, như trước kia ( tự do chủ nghĩa cỗ).

Quyền tự do kinh tế là quyền căn bản thiết yếu cho mọi quyền tự do khác. Ngay cả tầm quan trọng của các giá trị luân lý , mà không ai có thể chối cải, cũng được quan niệm nhằm phát triển kinh tế phổ quát và tăng trưởng thêm.  

Nói tóm lại, chúng ta có thể nói là tân tự do kinh tế chủ nghĩa vẫn còn tồn giữ thực chất của những đặc tính tự do chủ nghĩa cỗ, mặc dầu có một vài nhượng bộ do tiến trình thời gian.

Từ đó kinh tế tư bản thập niên '30 không có gì ít nguy hiểm hơn chủ trương kinh tế trước đó. Còn đúng hơn là một quan niệm kinh tế đáng sợ, bởi vì là quan niệm làm phát sinh thu tóm, chồng chất quyền lực ( không phải chỉ kinh tế) trong tay của một vài thiểu số.

Bởi đó Đức Thánh Cha Pio XI lên tiếng:

   - " Điều làm cho xốn mắt đó là sự kiện trong thời đại chúng ta, không những chỉ có thu tóm, tập trung của cải giàu sang, mà là tập trung cả một quyền lực khổng lồ, tập trung kinh tế phe phái cha truyền con nối trong tay một số ít, mà rất thường không phải họ là chủ nhân, mà chỉ là những người được ủy thác và quản trị tài nguyên tư bản, nhưng họ có thể hành xử cách nào tùy hỷ (...) Nói một cách nào đó, họ là những người phân phát máu huyết làm cho cơ thể kinh tế sống được, và họ có trong tay , chúng ta có thể nói như vậy, linh hồn của kinh tế. Bởi đó ai chống lại họ, không thể nào có thể còn thở được " ( ĐTC Pio XI, Quadragesimo Anno (15.05.1931), n. 113s, in CERAS, 98s). 

Đâu là lý do tạo nên tình trạng tha hóa đó?

Đức Thánh Cha Pio XI cho biết rằng đó là sự tìm kiếm lợi nhuận trở thành việc tìm kiếm quyền lực. Ngài còn nhấn mạnh, quyền lực không phải chỉ kinh tế, mà cả chính trị, đến nỗi tạo ra  cả một " đế quốc  tài chánh quốc tế " ( id., n. 117, in CERAS, 99s).

Nhưng lời cảnh cáo đó của Đức Thánh Cha trước những bối cảnh thảm đạm xáo trộn thế giới, mà cả hiện nay chúng ta cũng đang có trước mắt.

Đó là lý do tại sao Giáo Hội vẫn tiếp tục cảnh cáo và lên án cả tân tự do kinh tế chủ nghĩa ( neoliberalismo). Bởi vì

   - " việc tập trung tài sản, giàu có và quyền lực trong tay một nhóm người tạo ra ba loại đấu tranh để chiếm phần thượng phong, trước tiên là giành giựt để có thế thượng phong kinh tế, kế đến là đấu tranh quyết liệt để chiếm lấy quyền lực chính trị, để chiếm được sức mạnh của chính trị và ành hưởng của nó trong việc cạnh tranh kinh tế; và sau cùng là đấu tranh giành ảnh hưởng trên cả lãnh vực quốc tế, để nhằm được mục đích. Như vậy cả lãnh vực kinh tế trở nên khó khăn khủng khiếp, bất nhân nhượng và ác độc " ( id., n. 116s, in CERAS, 99s). 

Như vậy, phải làm gì?

ĐTC Pio XI

   - không chỉ giới hạn lên án,

   - mà còn thúc đẩy người công giáo hãy ra tay, dấn thân tác động.

Đó là " con đường thứ ba ", giữa cộng sản chủ nghĩa và tân tự do kinh tế chủ nghĩa, bằng thể thức hành xử ngay cả trên phương diện luật pháp.

Về phía ĐTC Pio XII, ngài không viết ra một Thông Điệp nào, chỉ lấy lại tư tưởng định hướng của Vị Tiền Nhiệm mình và đề nghị dưới hình thức chuyên cần dấn thân thiết thực, để xây dựng " một cách sống Ki Tô giáo mới " hay xây dựng " một nền văn minh tình thương ".   

   3 - Văn minh Ki Tô giáo, con đường thứ ba.

Đứng trước những ý thức hệ đã trở thành khuôn mẫu thực hữu tổ chức xã hội và kinh tế với những đại hoạ đã đem đến cho con người, như đã đề cập, Thông Điệp Quadragesimo Anno khai triển rộng ra vấn đề xã hội  đưa ra một khuôn mẫu thứ ba, giải thích  các nguyên tắc luân lý và các lời giảng dạy của Giáo Hội thành phương thức tổ chức xã hội theo nhãn quang Ki Tô giáo.

ĐTC Pio XI đề nghị tìm ra một " nền văn minh Ki Tô giáo ", con đường thứ ba giữa công sản chủ nghĩa kinh tế tập trung và tân  tự do kinh tế chủ nghĩa với những sai trái phải có, chúng ta vừa kể.  

Tư tưởng vừa kể của ĐTC Pio XI không có gì mới mẻ. Giáo Hội với nhiều hình thức văn hóa và nhiều lần lên tiếng đòi buộc chính thức, chưa bao giờ buông tay đầu hàng cho rằng Ki Tô giáo đã đi đến đường cùng.

Phương thức tổ chức xã hội thời Trung Cổ, trong tâm thức nhiều người, vẫn còn là lý tưởng để tổ chức xã hội.

Trước hết là nhóm công giáo bảo thủ ( với Louis de Bonald), rồi kế đến là nhóm công giáo cực đoan ( với Joseph de Maistre, Félicité  de Lamemmais và Louis  Veuillot) nhấn mạnh rằng chuổi dài các sai trái của thể giới tân tiến đưa đến Cách Mạng Pháp Quốc, thái độ chống đối hàng giáo phẩm của tự do chủ nghĩa và tư tưởng vô thần của xã hội chủ nghĩa, đó là do nền Ki Tô giáo thời Trung Cổ, việc đổ vở giữa ngai vàng và bàn thờ và cũng do việc rách nát do việc Canh Tân Tin Lành đưa đến.

Để có thể đứng thẳng dậy, không có cách nào khác hơn là thiết định lại " nên văn minh Ki Tô giáo " , nghĩa tổ chức xã hội thích đáng với đức tin.  

Những nhà tư tưởng công giáo khác cho rằng phải thiết đinh một khuôn mẫu chung sống văn minh khác, không còn theo phương thức thời Trung Cổ nữa. có khả năng đáp ứng lại những thử thách mới mẻ của thời đại mới. Nhưng có nhiều người cho đó là ý nghĩ không tưởng. 

ĐTC Pio XI lấy lại tư tưởng một nền " văn minh Ki Tô giáo ", được coi như là con đường thứ ba. Tuy nhiên tư tưởng của ngài không phải chỉ là trở lại những gì trong quá khứ, mà là một đề nghị khuôn mẫu mới của " một nền văn minh Ki Tô giáo ". Ngài đề nghị ra những đường nét tổng quát và cả đến hình thức luật định về nghiệp hội.

Trên thực tế, ý định của ĐTC Pio XI là đưa ra định chế cho quốc gia cũng như quốc tế, dựa trên khuynh hướng cộng bình xã hội, có khả năng phối hợp các hoạt động kinh tế nhằm công ích, băng cách tạo nên giữa Quốc Gia và người dân, các tổ chức xã hội trung gian nhằm mục đích kinh tế và nghề nghiệp ( tức là hiệp hội kỷ nghệ, công đoàn lạo động, đảng phái chính trị ...).

Như vậy các cá nhân, cũng như các tổ chức xã hội trung gian có thể hoạt động, mỗi thành phần trong lãnh vực và thẩm quyền của mình, mà khọi bị quyền lực trung ương truất hữu.

Trong tư tưởng đó, đây là lần đầu tiên ĐTC Pio XI tuyên bố nguyên tắc " phụ túc bảo trợ " ( sussidiarietà ) và sau đó nguyên tắc được trở thành gia tài chung cho việc tổ chức xã hội:

   - " Cũng như là điều không chính đáng tước bỏ đi đối với cá nhân điều gì anh ta có thể tự sức lực và sáng kiến của mình có thể thực hiện được, để chuyển giao cho cộng đồng, cũng vậy là điều không chính đáng uy thác cho một tổ chức xã hội lớn hơn hay cao hơn, những gì mà các tổ chức xã hội nhỏ bé hơn và thấp hơn có thể làm được " ( ĐTC Pio XI, Quadragesio Anno 8 15.05.1931), n. 86, in CERAS, 92). 

Trong nhãn quang " con đường thứ ba " đó, được hiểu một cách chính đáng, chúng ta nên hiểu các cập nhật hóa của ĐTC Pio XI đối với những gì đã được tuyên bố trong Thông Điệp Rerum Novarum, để đáp ứng thích hợp với những điều kiện lịch sử của " vấn đề xã hội " :

   - lương bổng chính đáng ,

   - vai trò xã hội của quyền tư hữu,

   - Quốc Gia can thiệp vào kinh tế.  

( Tài liệu nghiên cứu thêm: Tổng lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, n. 91, 92: " ĐTC Pio XI giữa cộng sản chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa). 

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!