SUY NIỆM PHÚC ÂM ( IV A 58 );( Mt 25, 31-46);( 20.11.2011)
LỄ CHÚA GIÊSU LÀ VUA
NGUYỄN HỌC TẬP
Thánh lễ Chúa Nhật hôm nay chúng ta tham dự để tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, kết thúc chu kỳ năm Phụng Vụ đang được cử hành và để bắt đầu năm Phụng Vụ mới vào Chúa Nhật tới, Chúa Nhật I Mùa Vọng.
Phúc Âm của Thánh Lễ hôm nay tường thuật lại bài giảng thứ năm, bài giảng cuối của loạt các bài giảng về ngày cánh chung, mà Thánh Matthêu tường thuật lại cho chúng ta.
Và vì là điểm cuối của thời cánh chung, nên Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu, sau khi hoàn tất sứ mạng trần gian của Ngài, trở về cùng Chúa Cha. Ngài là Con Thiên Chúa được tôn vinh là vua vủ trụ:
- " Bấy giờ Đức Vua phán cùng những người bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến thứa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa" ( Mt 25, 34).
Chúa Giêsu là Vua,
- là Con Thiên Chúa, Ngài gọi Thiên Chúa là Cha," những kẻ Cha Ta chúc phúc",
- là Ngôi Hai Thiên Chúa
- và " Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết" ( Kinh Tin Kính).
Đoạn Phúc Âm của Thánh Lễ hôm nay thuật ngày trở lại của Chúa Giêsu mà chúng ta đọc trong Kinh Tin Kính.
- " Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê"( Mt 25, 31-32).
Đọc đến đây, một câu hỏi tự nhiên đến với bất cứ ai là " các dân thiên hạ" câu Phúc Âm vừa đề cập là ai?
Những chú thích Thánh Kinh thông thường cho rằng " các dân thiên hạ " là tất cả mọi dân tộc trên thế giới. Đó là lối chú thích thường được chúng ta dùng để ứng dụng vào hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Nhưng khi viết đoạn Phúc Âm chúng ta đang đọc, không hẵn Thánh Matthêu đã nghĩ như vậy.
" Các dân thiên hạ " đối với Thánh Matthêu đúng hơn là " dân ngoại đạo", so với dân có đạo hay dân Do Thái lúc đó, như quan niệm thông thường của Ngài:
- " Thầy đã được trao toàn quyền trên trời duới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em".( Mt 28, 19).
Đó là lời Đức Giêsu nói với các môn đệ, sau khi sống lại và nói để từ giả các ông, để bảo các ông nới rộng lãnh vực truyền giáo ra khắp nơi.
Trái lại khi mới khởi đầu công cuộc truyền giáo, Ngài chỉ sai các môn đệ rao giảng cho dân Do Thái :
- " Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samaria. Tốt hơn hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel" ( Mt 10, 5b-7).
Và nếu "các dân thiên hạ" là " các dân ngoại đạo", thì " những kẻ bé mọn " trong Phúc Âm Thánh Matthêu chúng ta đang đọc sẽ không ai khác hơn là
- một số nhóm người nhỏ bé,
- những cộng đồng Ki Tô hữu đầu tiên
- hay hạn hẹp hơn nữa là các môn đệ, đang bị dân Do Thái và các người Pharisêu bách hại, nhưng được " các dân ngoại đạo" tiếp nhận:
- " Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ nầy uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần đâu" ( Mt 10,42).
Như vậy qua lời tường thuật của Thánh Matthêu, chúng ta thấy rằng trong ngày cánh chung, Đức Vua sẽ tách biệt dân ngoại đạo và dân có đạo Do thái, nhứt là những người thuộc thành phần chọn lọc Pharisêu, không chịu tiếp nhận giáo lý của Ngài, ngược đãi các Ki Tô hữu đầu tiên và nhứt là các môn đệ Ngài,
- "
như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái" ( Mt 25, 32b.33).
Dân ngoại đạo, mà Ngài sai các môn đệ Ngài đến để giảng dạy cho họ và
- "
làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em", dân ngoại đó sẽ là chiên được Đức Vua cho đứng bên phải Người.
Bởi lẽ họ đã bênh vực và giúp đở các môn đệ và những Ki Tô hữu, những anh em bé nhỏ của Ngài:
- " Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" ( Mt 25, 40).
So sánh hai câu tuyên bố của Đức Vua ngày cánh chung đối với những người được " cho đứng bên phải " và " những người ở bên trái ", chúng ta thấy rằng hai lời nói gần như hoàn toàn trùng hợp nhau:
- " Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thứa hưỏng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thưở tạo thiên lập địa
Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy" ( Mt 25, 34-37.40).
- " Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta.Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy" ( Mt 25, 41b-43.45), chỉ trừ một chi tiết:
- ở phần nói với dân chúng bên phải, Đức Vua gọi những kẻ bé mọn là " anh em bé nhỏ nhất của Ta",
- trong khi đó thì ở phần nói với những người bên trái Ngài, Đức Vua chỉ gọi những kẻ bé mọn là: không làm như thế cho một trong " những kẻ bé nhỏ nhất " ( thiếu hẳn từ ngữ anh em).
Và " anh em bé nhỏ nhất của Ta" như ở trên chúng ta đã nói, Chúa Giêsu có ý dùng để ám chỉ các môn đệ Ngài, những tín hữu theo Ngài: " vì kẻ ấy là môn đệ Thầy"( Mt 10,42).
Chúa Giêsu dùng từ ngữ trên, qua lời tường thuật lại của Thánh Matthêu như vậy là để khuyến khích " dân ngoại đạo" cư xử tốt đẹp đối với các tín hữu và môn đệ của Chúa Ki Tô.
Trong khi đó, do việc bỏ đi từ ngữ " anh em", trong câu " những kẻ bé nhỏ nhứt đây" cho thấy rằng Đức Giêsu không còn hạn hẹp thành phần những kẻ bé nhỏ, con người đang cần được giúp đỡ, không phân biệt thành phần môn đệ hay các tín hữu theo Ngài, hay bất cứ ai là con người cần được giúp đỡ.
Còn nữa, con người cần được giúp đỡ đó, bất cứ ai cũng có thể giúp đỡ.
Và bất cứ ai giúp đỡ con người bé nhỏ, khốn cùng, đều là những kẻ sẽ được Ngài mời gọi:
- "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc
" ( Mt 25, 34).
Bởi lẽ giúp đỡ họ là phục vụ chính Chúa Giêsu. Ai cũng có thể phục vụ Chúa Giêsu và ai cũng có thể được Ngài ban cho hạnh phúc trong Vương Quốc Ngài, nếu người đó biết phục vụ người đồng loại mình.
Do đó, người có đạo ( Do Thái Giáo ) hay dân ngoại đạo phục vụ con người cần được giúp đỡ, " những kẻ bé nhỏ nhất đây", sẽ là người được Đức Vua tuyên dương công trạng.
Nói cách khác, Chúa Giêsu đã đồng hóa nhu cầu của những kẻ yếu thế, bé mọn thành chính nhu cầu của Ngài. Phục vụ họ là phục vụ cho chính Ngài.
Một điểm tương đồng giữa bài giảng cuối cùng hôm nay về ngày cánh chung ( Mt 25, 31-46) và bài giảng bằng dụ ngôn các thiếu nữ dự tiệc cưới ( Mt 25, 1-13) là trong cả hai bài giảng, các đương sự của hai câu chuyện đều bị các yếu tố bất ngờ bắt chợt.
Các thiếu nữ bất cẩn đi dự tiệc cưới bị bắt chợt, " vì chàng rể đến chậm, nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả"( Mt 25, 5) và vì chàng rể đến chậm, nên đèn các cô bị hết dầu.
Trong đoạn Phúc Âm của Thánh Lễ hôm nay, những người ở bên phải Đức Vua ( được thăng thưởng) cũng như những người bên trái ( bị tuyên án phạt) đều bị bất ngờ bởi mặc khải cao cả của Ki Tô giáo: con người là con Thiên Chúa, nên ai phục vụ con người, nâng đở, an ủi, bênh vực họ khi họ bị khốn cùng, là phục vụ cho chính Thiên Chúa:
- " Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn; khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ, mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc. Có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù mà đến hỏi han đâu?" ( Mt 25, 37-39.44).
- " Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" ( Mt 25, 40).
Như vậy, muốn cho đèn không bị tắt ngõm, các cô phải toan tính trước. Cuộc sống đức tin không thể là cuộc sống thờ ơ chểnh mảng, sống qua ngày, mà là cuộc sống tích cực, suy tính và chuyên cần.
Cũng vậy, câu nói của Chúa Giêsu xác nhận đức tin Ki Tô giáo phải được sống động bằng hành động:
- " Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thứa hưởng Vương Quốc đã dọn sẳn cho các ngươi ngay từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han" ( Mt 25, 34-37).
Câu tuyên bố vừa trích dẫn để thăng thưởng " những kẻ Cha Ta chúc phúc", cũng như câu quở trách tương tợ đối với những ai sống chểnh mảng, thờ ơ, không bao giờ nhìn thấy những đau khổ bất hạnh, oan ức, thiệt thòi của anh em, hoặc có thấy " lách sang bên rồi bỏ đi luôn", như thái độ của thầy tư tế và thầy thông thái luật trong câu chuyện người Samaritano nhân lành, tệ hơn nữa, " thấy vậy, biết vậy, lách sang rồi bỏ đi luôn, vì có thể bị áp lực, vì lợi thú, để được an phận thủ thường, bị ai " trấn nước ", ".bịt miêng ", " dân oan bị cướp của, đánh đập, xuất khẩu lao động làm nô lệ bị bốc lột, trẻ em gái vị thành niên bị bán làm nô lệ cho các nước làng giềng", mình vẫn điềm nhiên toạ thị, " sống chết mặc bây ". Đó có phải là thái độ của " những kẻ được Cha Ta chúc phúc " không?
Đó có phải là thái độ Ki Tô hữu phải có đối với " những người bé nhỏ nhứt đây " hay không?
Hai câu tuyên bố vừa kể là những lời cảnh tỉnh cho bất cứ ai trong chúng ta.
Không những giáo lý của Chúa Giêsu luôn khuyên dạy chúng ta:
- " Phúc cho ai khao khát sự công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa làm cho thoả lòng.
Phúc cho ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa thương xót
Phúc cho ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ
" ( Mt 5,6-7.10), mà cả cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu là cuộc đời biến nước thành rượu, hoá bánh và cá ra nhiều, làm phép lạ để chửa những khốn cùng của con người, để cho
- " người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng" ( Mt 11, 5).
Và trong những giờ phút cuối cùng của cuộc sống, trước khi chịu tử nạn, Chúa Giêsu còn trối với chúng ta:
- " Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em
anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em" (Jn 13, 14-15.17).
Giáo lý, cuộc đời Chúa Giêsu và phương cách hành xử của chúng ta không thể tương phản nhau được, nều chúng ta muốn được Chúa Giêsu mời gọi bằng
- " Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc
" ( Mt 25, 34).