|  | 	
		
	
	|  |  
		
		| Bài Viết Của Francis Assisi Lê Đình Bảng 
 |  
		|   		NHỮNG MÙA TRĂNG TUỔI MỌN Mấy
hôm nay, ảnh hưởng cơn bão Ophilia từ đâu ghé qua, nơi tỉnh lẻ tôi ở cứ sụt
sùi, ướt át, lạnh tê, lạnh tái cả ngày. Mất hẳn cái phong vị vào Thu huê tình,
lãng mạn của một thuở một thời ngất ngây trong cảm xúc bay bổng, khi ngồi trong
lớp, giảng về Truyện Kiều cho học trò, những năm trước 1975 ở Sài gòn:
 “người
lên ngựa, kẻ chia bào … rừng
phong, Thu đã nhuốm màu quan san”. |  |  |  
		| 		Bập bềnh trên sông bao la... rằm trung thu, nhớ Lm - nhạc sĩ Phương Linh  Hôm mới rồi, kẻ viết bài này làm nhiệm vụ - thay cha mẹ nó bận đi làm ăn xa nhà – đón đứa cháu nội đang gửi học lớp chồi bán trú về. Trời Sài Gòn bỗng dưng mưa ào ào, ngập lụt cả sân trường. Ngồi chờ trong lớp, ngó quanh quất, thấy rặt những đồ chơi bằng gỗ, bằng nhựa, đủ kiểu dáng, đủ sắc màu, nom cứ như là chợ trời. Lại có cả súng đạn, gươm đao, xe tăng, hỏa tiễn, siêu nhân, người dơi, người máy nữa... Tìm mãi, chẳng thấy chút bóng dáng gì của thiên nhiên như núi sông, trăng nước, loài vật, cỏ cây, hoa lá, mùa màng. Thầm nghĩ, thế giới trẻ thơ bây giờ cũng đang bị cuốn vào nhịp sống tốc độ vô cảm của đô thị-công nghiệp hóa của người lớn rồi. Hèn chi đám học trò con nít dám đặt bút viết câu mở đầu bài luận văn rất ư là tỉnh bơ thế này "Nhà em có...nuôi...một...ông nội"!
 |  |  |  
		|   		TÔI  SẼ  LÀM  MƯA  HOA  HỒNG Trên đây là lời tâm nguyện thiết tha của một cô bé, để rồi sau đó trở thành một nữ tu trẻ dòng kín Cát Minh. Muốn là cơn mưa hoa hồng. Một linh mục truyền giáo phương xa. Một thầy phó tế. Một tiến sĩ hội thánh. Thậm chí muốn được sống những năm tháng cuối đời tại dòng kín Hà Nội xa xăm kia. Tôi muốn nhiều, thật nhiều, muốn tất cả .Đấy là tiếng nói khát yêu của con sơn ca líu lo bên lòng bạn tình Giêsu chí ái. Con chim ấy, trái tim ấy, giọng hót ấy, vòng nguyệt quế và chùm hào quang ấy chính là Thánh Nữ Tê rê sa Hài Đồng Giêsu (1873-1897), quê thành Lisieux, nước Pháp. Tôi mạn phép gọi Nàng là vì sao lẻ loi, hắt bóng lên bầu trời thế giới ở những ngày tháng vụt tàn của thế kỷ XIX.
 |  |  |  
		| 		TÔI  CÓ  LÀ  CHI CŨNG  NHỜ ƠN CHUÁ Tạ ơn Chúa,đã cho tôi được sống
 Hít thở no nê sinh khí đất trời
 Và thấm nhuần ơn mưa móc sinh sôi
 Trong gió lá của bốn mùa suối tưới
 
 |  |  |  
		| 		CÔNG GIÁO VIỆT NAM VÀ DI SẢN HÁN NÔM Xưa nay, người ta vẫn có định kiến - nếu không muốn nói là cường điệu - rằng Công giáo Việt Nam làm gì có Hán Nôm? Cũng vậy, là một tôn giáo của phương Tây, du nhập từ biên cương ngoại lai nào xa lắc xa lơ, Công giáo Việt Nam làm sao sở hữu được kho tàng sách vở, tư liệu viết bằng Hán Nôm? Thậm chí, có người còn kết án là Công giáo muốn tiêu diệt truyền thống văn hoá, khi khai sinh và cổ xuý phát triển chữ Quốc ngữ? Hoặc giả, có chăng, chỉ là những khái niệm vá víu, mơ hồ, vay mượn, cùng lắm, chỉ là vài ba quyển sách nghèo nàn về đạo, về giáo lý; đọc lên, thuần là kinh kệ, phép tắc, lễ nghi, tế tự của nhà thờ nhà thánh; do cha cố ghi chép bằng thứ Quốc ngữ thô mộc mới ra lò, còn phôi thai, hoặc đôi khi pha lẫn ít nhiều ngoại văn rất xa lạ (La Tinh, Bồ, Pháp), để sử dụng tạm thời trong việc hành đạo. Cụ thể, là Phép Giảng Tám Ngày, quyển sách Giáo lý Công giáo đầu tiên (1651) dành cho người Việt đặng vào đạo.(1) Sự thật không hề đơn giản và khô khốc đến thế đâu. Mà một khi đã nói về kinh kệ thì chẳng cứ gì Công giáo. Đạo nào cũng thế thôi, nghĩa là luôn sẵn có đấy một số ngôn ngữ thuộc về một phạm trù rất riêng, trong khuôn khổ kinh kệ. Mà kinh kệ thì thiên kinh vạn quyển, bát ngát mênh mông, kể sao cho xuể. Bởi thế, khi không, tại sao miệng đời có câu “Kinh nhà đạo, gạo nhà chùa.”? Cứ lấy trường hợp của kinh sách nhà Phật ở nước ta làm thí dụ. Mấy ngàn năm vào Việt Nam rồi - thậm chí, đã được triều đại nhà Lý tôn làm quốc giáo - xin hỏi chứ, được bao nhiêu người con Phật miệng khấn tay vái mà lòng trí hiểu được ngọn ngành ý nghĩa thâm sâu của các kinh sách ghi chép bằng đủ thứ chữ: Phạn, Pali, Tây Tạng, Hán, Mông Cổ, Mãn Châu, Khotaese, Nhật Bản, Triều Tiên...? Riêng bản thân kẻ viết bài này, đã nhiều phen có cảm giác rơi vào cái mê cung mịt mù không lối ra ấy. Thế thì, ba cái chữ nghĩa... lẻ tẻ La Tinh, Bồ hoặc Pháp ngữ tản mạn gặp thấy đó đây còn sót lại nơi các trang sách kinh của Công giáo Việt Nam có gì phải ca cẩm ầm ĩ cho lớn chuyện? Kinh sách ấy vẫn tồn tại, vẫn được lưu truyền và từng bước được cập nhật, trở thành “của nuôi linh hồn” bao thế hệ người bên đạo. Đặc biệt, kinh qua những thời buổi cấm cách, những cơn chinh chiến, gió bụi, những lúc khốn cùng, cô đơn, cô độc, tuyệt vọng, không biết cậy dựa vào đâu.
 |  |  |  
		|   		TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU Hai phạm trù, hai lĩnh vực khác biệt. Một đàng quy hướng về cõi tinh thần, tâm linh và một đàng thiên trọng về đường mỹ cảm, nghệ thuật. Trên lý thuyết, một bản văn về đức tin hoặc văn học, tuy cùng sử dụng phương tiện diễn đạt, hình thức chuyển tải là ngôn ngữ văn tự, nhưng cả hai không hẳn đồng nhất về nội dung, mục đích. Thực tế trái lại. Dù Đông hay Tây, kim hay cổ, dường như hai phạm trù riêng rẽ này vẫn phải có nhau, cần đến nhau, nương tựa vào nhau, bổ sung bù đắp qua lại với nhau, như một quan hệ biện chứng. Bởi khi văn dĩ tải đạo và thi ngôn kỳ chí thì đạo mở lối chỉ đường cho thơ văn thấu cái minh triết, trụ cái bền vững, đạt cái thăng hoa miên viễn.
 |  |  |  
		|   		Mẹ La Vang, Mẹ Giáo Hội Việt Nam Ngày nay không còn nghi ngờ gì nữa, nói đến La Vang là nói đến một sự gắn kết diệu kỳ giữa Đức Mẹ và một địa danh có thật (La Vang, Quảng Trị), ở vào một thời điểm có thật trong lịch sử (đời Cảnh Thịnh 1798) đã kinh qua, đã được cảm nghiệm, nhìn nhận và xác tín trong dòng thời gian trên 200 năm (1798-2000). Nói thế không có nghĩa là mối cơ duyên nghĩa tình giữa trời cao với đất thấp, giữa Đức Trinh Nữ Maria với tín hữu Việt Nam chỉ có và chỉ bắt đầu từ sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở La Vang vào năm 1798, triều vua Cảnh Thịnh.		       
				
		...File kèm
   |  |  |  
		| 		VỀ LAVANG, VỀ NHÀ  MẸ  TRĂM  GIAN Ơi, cái nắng của mùa Thu, tháng 8
 Đã vàng hơn, hay không thể vàng hơn
 Đưa nhau về, thầm hỏi Huế, sông Hương
 Vẫn mải miết, một dòng xanh ngút ngát
 |  |  |  
		|   		MỘT CHÚT TÂM TÌNH CỎ HOA Đã có một thời xa lắm, khoảng những năm 1947-1954, tuổi trẻ chúng tôi mê mẩn đọc những sách truyện dịch nhiều chương hồi, như Tam Quốc, Thủy Hử, Sử Ký Tư Mã Thiên.v.v… Trở về với khung cảnh xứ đạo – làng quê thì lại sẵn có một thứ văn học rất đặc thù là kinh sách, ca vãn, tuồng truyện. Nhà nhà, người người cứ là ra rả ngâm ngợi hoặc vùi đầu vào Sấm Truyền Cũ và Hạnh Các Thánh. Sách in đẹp, chữ lớn, lại có nhiều tranh ảnh minh họa. Vừa đọc vừa mân mê, nương ghé từng trang giấy mỏng tanh còn thơm mùi lá trầm, hoa sứ, ai đánh dấu sẵn trong ấy. Lại cũng có một thời chưa xa lắm (1955-1970) – khi chiến tranh rình rập ngay trước cửa nhà mình – ai nấy đọc Hồn Bướm Mơ Tiên, Tiêu Sơn Tráng Sĩ, Bướm Trắng, Gió Đầu Mùa, Nắng Trong Vườn của Tự Lực Văn Đoàn. Hít thở một làn gió mới từ văn học Tây phương. Thế rồi giặc giã đao binh cường tập, sống nay chết mai, học hành, cơm áo bấp bênh. Truyện võ hiệp kỳ tình của Kim Dung được dịp du nhập ồ ạt. Đi đến đâu, gặp người nào cũng thấy ăn, nói, viết và cả triết lý sặc mùi “luyện chưởng”. Trong bối cảnh nhập nhằng sáng tối ấy, đỏ con mắt mà chẳng tìm đâu ra bóng dáng những tập truyện Công giáo. Có chăng, là nghe thiên hạ kể về Một Linh Hồn (1940) của Thụy An; Chân Trời Cũ (1941) của Hồ Dzếnh; Những Ngày Đẫm Máu (1953) của Phương Khanh; Đời Anh (1959) của Võ Thanh; Trái Cam Máu (1959) của Nguyễn Duy Tôn và Xóm Giáo (1965) của Hà Châu. Mỗi nhà văn, mỗi tác phẩm chợt ẩn chợt hiện, lẻ loi, hoa trôi bèo dạt.
 |  |  |  
		| 		Trường ca TỰ TÌNH KHÚC Con vào nhà Đức Chúa Trời
 Nhớ, quên. Còn, mất. Đã rơi rụng nhiều
 Xét mình, còn chẳng bao nhiêu
 Để làm lưng vốn mang theo, sống đời
 |  |  |  
		| 		Ở MỘT MIỀN QUÊ KHÁC Có loài hoa nào lạ đời, xuyên tuyết
 Như kẻ tha hương, chạnh nhớ, thèm về Cái ổ rơm, bờ duối dại, đường đê Và hết thảy những gì đang tàn lụi |  |  |  
		| 		GIỮA BAO LA ĐẤT TRỜI Có những lúc bốn bề ra trống vắng
 Một mình tôi nơi gian cuối nhà thờ Lõng trĩu buồn như cây lá ngủ trưa Phơi phong với từng ngày đông, tháng giá |  |  |  
		| 		TỚI PHIÊN CHẦU LƯỢT NHỚ VỀ THÔNG CÔNG Dù ai xuôi ngược đâu đâu,
 Nhớ phiên chầu luợt, rủ nhau mà về. Dù ai buôn bán trăm nghề, Tới phiên chầu luợt, nhớ về thông công. |  |  |  
		| 		NGUYỆN CẦU Lạy Chúa, lòng tôi như sáp bỏng
 Chảy về đâu bến đục, bờ trong Một nhành lau bỏ rơi, vương vãi Một chiếc thuyền khuya khoắt ngược dòng Chở những chiêm bao trôi dạt mãi Nhọc nhằn thay con vạc, con nông |  |  |  
		| 		BÀI NGỢI CA CHÚA TRỜI (Cảm hứng từ kinh nguyện Magnificat) 
 Ngợi khen Chúa, linh hồn tôi hớn hở Và reo vui, dâng của lễ đầu mùa Này, búp xanh chồi. Này, nụ măng tơ Của mưa móc đầm đìa ơn Cứu Rỗi |  |  |  
		| 		MẶT TRỜI Ở PHƯƠNG ĐÔNG Em vẫn ở bên kia bờ Cựu Ước
 Cùng Babel, tầng tháp cổ không lời? Trông ráng chiều theo khói sóng duềnh khơi Sao bão cát mù trời, bóng chim, tăm cá |  |  |  
		| 		LỜI DÂNG Đây nhã nhạc mười phương về chầu chực
 Ngợp đầy trời ơn phước rất bao la Bởi tình yêu từ Thiên Chúa Ngôi Ba Như thác lũ, như hừng đông bát ngát |  |  |  
		| 		CON VỀ XỨ MẸ MÙA HOA 
 Con về xứ đạo, vùng ven Đồng bưng mấy xã, nước phèn quanh năm Chờ trăng, trăng tỏ đêm rằm Mỗi khuya khoắt, mỗi lặng thầm lời kinh |  |  |  
		| 		ME NHƯ TRĂNG Ở ĐẦU NGUỒN Âm hưởng dân ca Quan Họ
 Thơ Francis Assisi Lê Đình Bảng Nhạc Ân Đức...File kèm   |  |  |  
		| 		PHẦN HỒN CỦA MỘT LỄ HỘI DÂNG HOA Vâng, Tháng 5 dâng hoa Kính Đức Mẹ, từ lâu lắm rồi trong nề nếp sinh hoạt của hầu hết các nhà thờ – xứ đạo Việt Nam ta, đã là một trong những lễ và hội lớn, có bài bản, kinh văn. Nó vừa chuyên chở được một nội dung thiêng thánh, lại vừa thể hiện được khá nhiều màu sắc, nét vẻ, cung cách, khả dĩ thu hút đông đảo quần chúng. Đến để xem, để nghe và để sống chan hòa những khoảnh khắc đức tin – lòng đạo: Nguyện cầu bằng văn hóa nghệ thuật. Phải tài hoa, nho nhã và đạo hạnh lắm, cha ông ta mới cưu mang, sinh thành được cái nỗ lực sáng tạo vận dụng ấy từ nguồn mạch phụng vụ, đưa nó vào đời sống. Rõ ràng, Lễ hội Dâng hoa (LHDH) đã diễn ra trong một không gian – thời gian đậm đặc mùi đạo. Rõ ràng LHDH là cách cử hành nghi thức hiếu sinh thơm thảo nhất của những người con thuần thành dâng lên Mẹ hiền.
 |  |  |  
		
		| [1] 
				1 
				2 3 
				4  [3/4] |  |