Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Francis Assisi Lê Đình Bảng
Tủ Sách CGVN

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

ThánhVịnhĐápCa (NgọcCẩn)

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Bài Viết Của Francis Assisi Lê Đình Bảng

TÔI CÓ LÀ CHI CŨNG NHỜ ƠN CHUÁ
Tạ ơn Chúa,đã cho tôi được sống
Hít thở no nê sinh khí đất trời
Và thấm nhuần ơn mưa móc sinh sôi
Trong gió lá của bốn mùa suối tưới

CÔNG GIÁO VIỆT NAM VÀ DI SẢN HÁN NÔM
 Xưa nay, người ta vẫn có định kiến - nếu không muốn nói là cường điệu - rằng Công giáo Việt Nam làm gì có Hán Nôm? Cũng vậy, là một tôn giáo của phương Tây, du nhập từ biên cương ngoại lai nào xa lắc xa lơ, Công giáo Việt Nam làm sao sở hữu được kho tàng sách vở, tư liệu viết bằng Hán Nôm? Thậm chí, có người còn kết án là Công giáo muốn tiêu diệt truyền thống văn hoá, khi khai sinh và cổ xuý phát triển chữ Quốc ngữ? Hoặc giả, có chăng, chỉ là những khái niệm vá víu, mơ hồ, vay mượn, cùng lắm, chỉ là vài ba quyển sách nghèo nàn về đạo, về giáo lý; đọc lên, thuần là kinh kệ, phép tắc, lễ nghi, tế tự của nhà thờ nhà thánh; do cha cố ghi chép bằng thứ Quốc ngữ thô mộc mới ra lò, còn phôi thai, hoặc đôi khi pha lẫn ít nhiều ngoại văn rất xa lạ (La Tinh, Bồ, Pháp), để sử dụng tạm thời trong việc hành đạo. Cụ thể, là Phép Giảng Tám Ngày, quyển sách Giáo lý Công giáo đầu tiên (1651) dành cho người Việt đặng vào đạo.(1) Sự thật không hề đơn giản và khô khốc đến thế đâu. Mà một khi đã nói về kinh kệ thì chẳng cứ gì Công giáo. Đạo nào cũng thế thôi, nghĩa là luôn sẵn có đấy một số ngôn ngữ thuộc về một phạm trù rất riêng, trong khuôn khổ kinh kệ. Mà kinh kệ thì thiên kinh vạn quyển, bát ngát mênh mông, kể sao cho xuể. Bởi thế, khi không, tại sao miệng đời có câu “Kinh nhà đạo, gạo nhà chùa.”Cứ lấy trường hợp của kinh sách nhà Phật ở nước ta làm thí dụ. Mấy ngàn năm vào Việt Nam rồi - thậm chí, đã được triều đại nhà Lý tôn làm quốc giáo - xin hỏi chứ, được bao nhiêu người con Phật miệng khấn tay vái mà lòng trí hiểu được ngọn ngành ý nghĩa thâm sâu của các kinh sách ghi chép bằng đủ thứ chữ: Phạn, Pali, Tây Tạng, Hán, Mông Cổ, Mãn Châu, Khotaese, Nhật Bản, Triều Tiên...? Riêng bản thân kẻ viết bài này, đã nhiều phen có cảm giác rơi vào cái mê cung mịt mù không lối ra ấy. Thế thì, ba cái chữ nghĩa... lẻ tẻ La Tinh, Bồ hoặc Pháp ngữ tản mạn gặp thấy đó đây còn sót lại nơi các trang sách kinh của Công giáo Việt Nam có gì phải ca cẩm ầm ĩ cho lớn chuyện? Kinh sách ấy vẫn tồn tại, vẫn được lưu truyền và từng bước được cập nhật, trở thành “của nuôi linh hồn” bao thế hệ người bên đạo. Đặc biệt, kinh qua những thời buổi cấm cách, những cơn chinh chiến, gió bụi, những lúc khốn cùng, cô đơn, cô độc, tuyệt vọng, không biết cậy dựa vào đâu.

TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU
Hai phạm trù, hai lĩnh vực khác biệt. Một đàng quy hướng về cõi tinh thần, tâm linh và một đàng thiên trọng về đường mỹ cảm, nghệ thuật. Trên lý thuyết, một bản văn về đức tin hoặc văn học, tuy cùng sử dụng phương tiện diễn đạt, hình thức chuyển tải là ngôn ngữ văn tự, nhưng cả hai không hẳn đồng nhất về nội dung, mục đích. Thực tế trái lại. Dù Đông hay Tây, kim hay cổ, dường như hai phạm trù riêng rẽ này vẫn phải có nhau, cần đến nhau, nương tựa vào nhau, bổ sung bù đắp qua lại với nhau, như một quan hệ biện chứng. Bởi khi văn dĩ tải đạo và thi ngôn kỳ chí thì đạo mở lối chỉ đường cho thơ văn thấu cái minh triết, trụ cái bền vững, đạt cái thăng hoa miên viễn.

Mẹ La Vang, Mẹ Giáo Hội Việt Nam
Ngày nay không còn nghi ngờ gì nữa, nói đến La Vang là nói đến một sự gắn kết diệu kỳ giữa Đức Mẹ và một địa danh có thật (La Vang, Quảng Trị), ở vào một thời điểm có thật trong lịch sử (đời Cảnh Thịnh 1798) đã kinh qua, đã được cảm nghiệm, nhìn nhận và xác tín trong dòng thời gian trên 200 năm (1798-2000). Nói thế không có nghĩa là mối cơ duyên nghĩa tình giữa trời cao với đất thấp, giữa Đức Trinh Nữ Maria với tín hữu Việt Nam chỉ có và chỉ bắt đầu từ sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở La Vang vào năm 1798, triều vua Cảnh Thịnh. ...File kèm Attach file

VỀ LAVANG, VỀ NHÀ MẸ TRĂM GIAN
Ơi, cái nắng của mùa Thu, tháng 8
Đã vàng hơn, hay không thể vàng hơn
Đưa nhau về, thầm hỏi Huế, sông Hương
Vẫn mải miết, một dòng xanh ngút ngát

MỘT CHÚT TÂM TÌNH CỎ HOA
Đã có một thời xa lắm, khoảng những năm 1947-1954, tuổi trẻ chúng tôi mê mẩn đọc những sách truyện dịch nhiều chương hồi, như Tam Quốc, Thủy Hử, Sử Ký Tư Mã Thiên.v.v… Trở về với khung cảnh xứ đạo – làng quê thì lại sẵn có một thứ văn học rất đặc thù là kinh sách, ca vãn, tuồng truyện. Nhà nhà, người người cứ là ra rả ngâm ngợi hoặc vùi đầu vào Sấm Truyền Cũ và Hạnh Các Thánh. Sách in đẹp, chữ lớn, lại có nhiều tranh ảnh minh họa. Vừa đọc vừa mân mê, nương ghé từng trang giấy mỏng tanh còn thơm mùi lá trầm, hoa sứ, ai đánh dấu sẵn trong ấy. Lại cũng có một thời chưa xa lắm (1955-1970) – khi chiến tranh rình rập ngay trước cửa nhà mình – ai nấy đọc Hồn Bướm Mơ Tiên, Tiêu Sơn Tráng Sĩ, Bướm Trắng, Gió Đầu Mùa, Nắng Trong Vườn của Tự Lực Văn Đoàn. Hít thở một làn gió mới từ văn học Tây phương. Thế rồi giặc giã đao binh cường tập, sống nay chết mai, học hành, cơm áo bấp bênh. Truyện võ hiệp kỳ tình của Kim Dung được dịp du nhập ồ ạt. Đi đến đâu, gặp người nào cũng thấy ăn, nói, viết và cả triết lý sặc mùi “luyện chưởng”. Trong bối cảnh nhập nhằng sáng tối ấy, đỏ con mắt mà chẳng tìm đâu ra bóng dáng những tập truyện Công giáo. Có chăng, là nghe thiên hạ kể về Một Linh Hồn (1940) của Thụy An; Chân Trời Cũ (1941) của Hồ Dzếnh; Những Ngày Đẫm Máu (1953) của Phương Khanh; Đời Anh (1959) của Võ Thanh; Trái Cam Máu (1959) của Nguyễn Duy Tôn và Xóm Giáo (1965) của Hà Châu. Mỗi nhà văn, mỗi tác phẩm chợt ẩn chợt hiện, lẻ loi, hoa trôi bèo dạt.

Trường ca TỰ TÌNH KHÚC
Con vào nhà Đức Chúa Trời
Nhớ, quên. Còn, mất. Đã rơi rụng nhiều
Xét mình, còn chẳng bao nhiêu
Để làm lưng vốn mang theo, sống đời

Ở MỘT MIỀN QUÊ KHÁC
Có loài hoa nào lạ đời, xuyên tuyết

Như kẻ tha hương, chạnh nhớ, thèm về

Cái ổ rơm, bờ duối dại, đường đê

Và hết thảy những gì đang tàn lụi

GIỮA BAO LA ĐẤT TRỜI
Có những lúc bốn bề ra trống vắng

Một mình tôi nơi gian cuối nhà thờ
Lõng trĩu buồn như cây lá ngủ trưa
Phơi phong với từng ngày đông, tháng giá

TỚI PHIÊN CHẦU LƯỢT NHỚ VỀ THÔNG CÔNG
Dù ai xuôi ngược đâu đâu,

Nhớ phiên chầu luợt, rủ nhau mà về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Tới phiên chầu luợt, nhớ về thông công.

NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa, lòng tôi như sáp bỏng

Chảy về đâu bến đục, bờ trong

Một nhành lau bỏ rơi, vương vãi

Một chiếc thuyền khuya khoắt ngược dòng

Chở những chiêm bao trôi dạt mãi

Nhọc nhằn thay con vạc, con nông

BÀI NGỢI CA CHÚA TRỜI (Cảm hứng từ kinh nguyện Magnificat)

Ngợi khen Chúa, linh hồn tôi hớn hở

Và reo vui, dâng của lễ đầu mùa

Này, búp xanh chồi. Này, nụ măng tơ

Của mưa móc đầm đìa ơn Cứu Rỗi

MẶT TRỜI Ở PHƯƠNG ĐÔNG
Em vẫn ở bên kia bờ Cựu Ước

Cùng Babel, tầng tháp cổ không lời?

Trông ráng chiều theo khói sóng duềnh khơi

Sao bão cát mù trời, bóng chim, tăm cá

LỜI DÂNG
Đây nhã nhạc mười phương về chầu chực

Ngợp đầy trời ơn phước rất bao la

Bởi tình yêu từ Thiên Chúa Ngôi Ba

Như thác lũ, như hừng đông bát ngát

CON VỀ XỨ MẸ MÙA HOA

Con về xứ đạo, vùng ven

Đồng bưng mấy xã, nước phèn quanh năm

Chờ trăng, trăng tỏ đêm rằm

Mỗi khuya khoắt, mỗi lặng thầm lời kinh

ME NHƯ TRĂNG Ở ĐẦU NGUỒN
Âm hưởng dân ca Quan Họ

Thơ Francis Assisi Lê Đình Bảng
Nhạc Ân Đức
...File kèm Attach file

PHẦN HỒN CỦA MỘT LỄ HỘI DÂNG HOA
Vâng, Tháng 5 dâng hoa Kính Đức Mẹ, từ lâu lắm rồi trong nề nếp sinh hoạt của hầu hết các nhà thờ – xứ đạo Việt Nam ta, đã là một trong những lễ và hội lớn, có bài bản, kinh văn. Nó vừa chuyên chở được một nội dung thiêng thánh, lại vừa thể hiện được khá nhiều màu sắc, nét vẻ, cung cách, khả dĩ thu hút đông đảo quần chúng. Đến để xem, để nghe và để sống chan hòa những khoảnh khắc đức tin – lòng đạo: Nguyện cầu bằng văn hóa nghệ thuật. Phải tài hoa, nho nhã và đạo hạnh lắm, cha ông ta mới cưu mang, sinh thành được cái nỗ lực sáng tạo vận dụng ấy từ nguồn mạch phụng vụ, đưa nó vào đời sống. Rõ ràng, Lễ hội Dâng hoa (LHDH) đã diễn ra trong một không gian – thời gian đậm đặc mùi đạo. Rõ ràng LHDH là cách cử hành nghi thức hiếu sinh thơm thảo nhất của những người con thuần thành dâng lên Mẹ hiền.

NỢ TRĂM NĂM BAO GIỜ TRẢ ĐƯỢC?
Alexandre de Rhodes (1591-1660) trước hết là một nhà truyền giáo đến từ phương Tây - có cái tên rất đỗi Việt Nam là Đắc Lộ - người mà xưa nay vẫn được vinh danh là “ông tổ khai sinh ra chữ Quốc ngữ”. Nhưng, bên cạnh hào quang ấy, vẫn là kẻ hàm oan, vì chính ông đã bị một bộ phận nào đó trong dư luận không đồng tình, gắt gao kết án là kẻ đi dưới bóng cờ thực dân của đoàn quân viễn chinh? Như thế, khác gì bảo, Quốc ngữ - đứa con tinh thần ông đã cưu mang và sinh thành - chỉ là công cụ của một ý đồ thực dân, xâm lược, không hơn không kém? Cứ lấy năm chào đời 1591 của Đắc Lộ làm dấu mốc thì đến nay, kỷ niệm sinh nhật lần thứ 432 của ông. Thời gian đằng đẵng ấy, như đã lùi xa dặm dài mấy trăm năm, còn hơn cả nỗi lo xa bất tri tam bách dư niên hậu.... của tác giả Truyện Kiều! Vâng, đúng thế, sao không để cho gió cuốn đi cho nó thoáng? Nghĩ lại, chạnh xót xa ngẫm ngợi, nếu biết ơn là thước đo phẩm hạnh của một con người tử tế, của một dân tộc có truyền thống hiếu đạo, thuỷ chung và văn minh thì không lý gì chúng ta lại hẹp lòng không hái được một bông hồng, thơm thảo làm quà tặng riêng ông, tạm coi như là chút gì để nhớ, để thương?...

TỪ KINH CẦU ĐỨC BÀ ĐẾN THÁNH MẪU THI KINH
Không còn nghi ngờ gì nữa. Kinh sách, ca vãn, nguyện ngắm về Đức Mẹ Maria, trên thực tế, đã là một trong những kho tàng đức tin và văn hoá rất đỗi phong phú, đa dạng, cả về ý nghĩa, nội dung lẫn hình thức diễn đạt. Kho tàng vô giá ấy khởi đi từ ngọn nguồn rất sâu là thông điệp truyền tin của sứ thần Gabriel, từ lời chào chúc của bà chị Đức Mẹ là thánh nữ Elizabeth, dẫn đến kinh Kính Mừng Ave Maria ta đọc thường ngày. Rồi từ bài tụng ca Magnificat tuyệt vời của Trinh Nữ Maria với lời “xin vâng”, mở ra một kỷ nguyên mới trong Tân Ước, cho đến toàn bộ những kinh nguyện sau này của Hội Thánh, như Sub Tuum Praesidium, Nativitae Mariae; Dormitione Mariae  và kinh Mân Côi... Đặc biệt, Kinh Cầu Đức Bà - một triều thiên chói ngời những tinh tú của Đức Mẹ - đã được chuẩn nhận và phổ biến rất sớm từ năm 1587. 

TÔI LÀM THƠ, NGHĨA LÀ TÔI CẦU NGUYỆN
Này, tôi đến và kêu xin cùng Chúa
Này, muôn kinh cầu nguyện, mỗi lời thơ
Giọt nồng nàn, từ khăn ấm, nhung tơ
Giọt băng giá, từ cơn đau, ruột thắt

[1] 1 2 3 4 [3/4]

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!